Tin thủy sản Astaxanthin tối ưu trong thức ăn tôm He Nhật Bản

Astaxanthin tối ưu trong thức ăn tôm He Nhật Bản

Tác giả Huỳnh Như, ngày đăng 27/03/2020

Astaxanthin tối ưu trong thức ăn tôm He Nhật Bản

Nghiên cứu nhằm tìm ra hàm lượng Astaxanthin tối ưu cho tôm He Nhật Bản và tạo cơ sở cho việc bổ sung Astaxanthin trên những loài tôm khác như tôm thẻ chân trắng và tôm sú.

Hình 1: Tôm he Nhật Bản (M. japonicus)

Astaxanthin (Ax) là một carotenoid, sắc tố này từ lâu được ứng dụng rộng rãi trong thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm và cả trong thức ăn thủy sản. Astaxanthin vừa là sắc tố quan trọng vừa đóng vai trò là chất chống oxy hóa tăng cường sức khỏe vật nuôi, do đó chúng được xem là chất kích thích miễn dịch, cần thiết bổ sung vào thức ăn cho động vật thủy sản. Nấm men Phaffia rhodozyma và vi tảo lục Haematococcus pluvialis được xem là hai nguồn giàu astaxanthin trong tự nhiên. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng astaxanthin được sử dụng như một thực phẩm bổ sung trong công thức thức ăn của động vật thủy sản (ĐVTS) qua đó thúc đẩy tăng sản lượng và chất lượng giống, kích thích tăng trưởng, tăng cường hệ miễn dịch, tăng khả năng chống chịu stress và kháng bệnh qua đó tăng tỉ lệ sống. 

Tuy nhiên, hàm lượng Astaxanthin bổ sung vào thức ăn tôm còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: đối tượng nuôi, giai đoạn phát triển, … Trong nghiên cứu này nhằm khảo sát hàm lượng Ax bổ sung vào thức ăn phù hợp với tôm he (Marsupenaeus japonicus) giai đoạn ấu trùng và post.

Thí nghiệm hàm lượng Ax bổ sung vào thức ăn nhằm đánh giá tỉ lệ sống (SR), giai đoạn phát triển (DS), tỉ lệ chuyển post (PL), chiều dài tổng (TL) và khả năng chổng chịu formaline stress (LT50) của ấu trùng tôm he.

Thí nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức với 3 lần lặp lại được trình bày trong Bảng. Ấu trùng tôm he được bố trí với mật độ 100 ấu trùng/L, hệ thống thí nghiệm được thiết kế như trong Hình 2. Giai đoạn 2, thí nghiệm được tiến hành trong 30 ngày với tôm post nhằm đánh giá việc bổ sung Ax vào thức ăn lên tăng trưởng, LT50, và chỉ số CMI (cumulative mortality index) khi gây sốc trong độ mặn. Hàm lượng Ax bổ sung vào thức ăn cho ấu trùng và tôm post được trình bày trong Bảng 1. 

Hình 2: Thí nghiệm với ấu trùng tôm he

Bảng 1: Hàm lượng Astaxanthin (Ax) bổ sung vào thức ăn tôm he giai đoạn ấu trùng và post

Nghiệm thức

Hàm lượng Astaxanthin (Ax) bổ sung vào thức ăn tôm ấu trùng và tôm post (ppm/kg thức ăn)

CT 0
D50 50
D100 100
D200 200
D400 400
D800 800

 

Thí nghiệm trên tôm tiền trưởng thành bao gồm 6 nghiệm thức với sự dao động của hàm lượng Ax bổ sung vào thức ăn được trình bày trong Bảng 2. Ảnh hưởng của Ax lên tôm he được đánh giá thông qua các chỉ tiêu tăng trưởng, giá trị LT50, và sắc tố của tôm sau 60 ngày thí nghiệm.

Tôm he tiền trưởng thành được bố trí trong bể 60 -80 L, với mật độ 10 con/bể. Thí nghiệm được bố trí với 3 lần lặp lại. Các chỉ tiêu chất lượng nước được theo dõi hàng ngày, hệ thống nước chảy tràn đảm bảo lượng nước được thay đổi 100%/ngày.

Bảng 2: Hàm lượng Astaxanthin (Ax) bổ sung vào thức ăn tôm he giai đoạn tiền trưởng thành

Nghiệm thức

Hàm lượng Astaxanthin (Ax) bổ sung vào thức ăn tôm ấu trùng và tôm post (ppm/kg thức ăn)

CT 0
D2 200
D4 400
D8 800
D12 1200
D16 1600

 

Kết quả nghiên cứu cho thấy ấu trùng tôm ăn thức ăn có bổ sung Ax cho SR, DS, PL, TL và LT50 cao hơn so với đối chứng (CT), đặc biệt cao nhất ở nghiệm thức D200 khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức khác (P<0,05). Các chỉ tiêu tăng trưởng của tôm post bao gồm: trọng lượng cuối cùng (FBW), tăng trọng (WG), tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) của tôm ở các nghiệm thức D50, D100, D200, D400, và D800 cao hơn so với CT, cao nhất ở nghiệm thức D100 và D200 (P<0,05). LT50 cao nhất và chỉ số CMI thấp nhất ở nghiệm thức D100 và D200, khác biệt có ý nghĩa so với đối chứng (P<0,05); tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức còn lại.

Kết quả thí nghiệm trên tôm tiền trưởng thành cho thấy tôm ở nghiệm thức D4 và D8 tăng trưởng nhanh hơn so với tôm ở nghiệm thức CT (P<0,05). Giá trị LT50 của tôm ở nghiệm thức D2, D4, và D8 cao hơn so với tôm ở nghiệm thức CT, D12, và D16 (P<0,05). Màu sắc của tôm được đánh giá sau khi luột tôm và đo bằng máy đo sắc tố, kết quả cho thấy Ax hoạt động như một carotein tạo sắc tố trên tôm. Màu sắc của tôm tăng cùng với sự tăng hàm lượng Ax bổ sung vào thức ăn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần thiết của việc bổ sung Astaxanthin tôm he Nhật bản (M. japonicus). Hàm lượng tối ưu của Ax khác nhau ở từng giai đoạn của tôm: đối với giai đoạn ấu trùng và post hàm lượng Ax nên bổ sung từ 100 – 200 ppm, đối với giai đoạn tiền trưởng thành hàm lượng Ax nên bổ sung vào thức ăn dao động từ 400 – 800 ppm. 

Tại Việt Nam, nghề nuôi tôm đang được chú trọng phát triển, các hướng phát triển tập trung vào tăng diện tích nuôi tôm, ứng dụng các mô hình nuôi tiên tiến nhằm tăng sản lượng tôm như: mô hình nuôi tôm siêu thâm canh lót bạc, mô hình nuôi tuần hoàn trong nhà. Sự phát triển của các mô hình nuôi phải hướng đến tăng cả về số lượng lẫn chất lượng tôm nuôi để đảm bảo phát triển bền vững ngành tôm. Do đó việc bổ sung Astaxanthin cho tôm được xem là một trong những giải pháp cần thiết và hiệu quả vừa tăng sức đề kháng vừa đảm bảo màu sắc và chất lượng thịt tôm.


Biện pháp chuẩn nhanh bệnh KHV trên cá chép Biện pháp chuẩn nhanh bệnh KHV trên cá… Hướng đi mới kích thích miễn dịch cho tôm Hướng đi mới kích thích miễn dịch cho…