Tin thủy sản Bài học từ Trung Quốc - Tương lai của IMTA

Bài học từ Trung Quốc - Tương lai của IMTA

Tác giả 2LUA.VN biên dịch, ngày đăng 20/07/2021

Bài học từ Trung Quốc - Tương lai của IMTA

Nuôi trồng thủy sản đa nhóm tích hợp (IMTA) đang chứng tỏ giá trị của nó ở Vịnh Sungo, Trung Quốc, với nhiều nghiên cứu nhằm củng cố những lợi ích về mặt kinh tế cùng như những lợi ích về mặt môi trường của nó.

Vịnh Sungo ở Trung Quốc. IMTA hiện chiếm hơn 50% sản lượng nuôi trồng thủy sản của Trung Quốc

Các giáo sư Jianguang Fang và Zengjie Jiang (từ Viện Nghiên cứu Thủy sản Biển Hoàng Hải đến tờ The Fish Site) đã giải thích như vậy trong bài báo tiếp theo tuần trước về sự phát triển lịch sử của nuôi trồng thủy sản đa nhóm tích hợp ở Trung Quốc.

Bối cảnh

Giáo sư Fang giải thích làm thế nào mà khối lượng đất sản xuất bằng nghề đánh bắt thủy sản ở Trung Quốc đã gia tăng từ 10,000 tấn một năm trong những năm 1950 lên hơn 20 triệu tấn một năm vào năm 2019, mức tăng trưởng này là sự đóng góp quan trọng vào nền an ninh lương thực.

Sản lượng này chủ yếu là sản lượng động vật có vỏ, chiếm hơn 14 triệu tấn và rong biển, chiếm 25 triệu tấn (2,5 triệu tấn trọng lượng khô). Ông chỉ ra rằng điều này minh chứng rằng Trung Quốc chú trọng nhiều hơn đến các loài dinh dưỡng thấp hơn, các loài không cần nuôi nấng so với hầu hết các nước ở phương Tây.

Giáo sư Fang lưu ý rằng nghề nuôi động thực vật ở biển của Trung Quốc ban đầu tập trung vào độc canh cá, tôm hoặc rong biển. Từ năm 1980 đến năm 2000, trọng tâm là “nuôi ghép hoặc nuôi kết hợp (có thể là động vật có vỏ và động vật có vỏ hoặc cá và cá)”. Nhưng sau năm 2000, các nhà sản xuất bắt đầu hướng tới nuôi trồng thủy sản đa nhóm tích hợp, dựa trên việc sản xuất các loài có các mức độ dinh dưỡng khác nhau.

“Rong biển và động vật có vỏ giúp cho việc thực hành IMTA rất dễ dàng. Vì ở Trung Quốc người dân địa phương ăn sò và rong biển, nhưng ở các nước châu Âu họ cho rằng cá là hải sản còn sò hay rong biển thì không phải là hải sản”, GS Fang phản ánh.

Theo Giáo sư Fang, động lực chính dẫn đến sự thay đổi là do “sự tự ô nhiễm” xuất phát từ quá nhiều hệ thống nuôi trồng thủy sản thâm canh ở một số khu vực (chẳng hạn như Vịnh Sungo, gần thành phố Vinh Thành ở tỉnh Sơn Đông) đã tạo ra quá nhiều trầm tích và hàm lượng nitơ và phốt pho trong nước quá cao, điều này dẫn đến hiện tượng phú dưỡng và đôi khi là hiện tượng thủy triều đỏ.

“Vì vậy, bây giờ chúng tôi thực hành IMTA - một sự kết hợp của các loài dinh dưỡng khác nhau từ cá, rong biển, sò và bào ngư. Bằng cách này, chúng ta có thể tạo điều kiện môi trường thuận lợi và cũng làm cho những người chăn nuôi có thu nhập tốt. Điều này rất, rất quan trọng bởi vì nếu nông dân có thu nhập tốt thì nghề nuôi trồng thủy sản sẽ phát triển một cách bền vững, còn nếu như không có thu nhập thì những người nông dân sẽ dừng việc đó lại”, GS Fang giải thích.

Ví dụ về IMTA ở Vịnh Sungo

Một thực hành rộng rãi được tích hợp từ nuôi trồng thủy sản là trồng tảo bẹ (Saccharina japonica) vào mùa đông và mùa xuân, rồi sau đó trồng tảo rau câu (Gracilaria sp) vào mùa hè và mùa thu.

“Việc trồng rong biển mang lại thu nhập rất tốt cho nông dân địa phương và hoạt động này cũng là một đóng góp lớn để cải thiện môi trường,” Giáo sư Fang và Jiang cho biết.

Theo một nghiên cứu của Giáo sư Fang và Jiang, hoạt động này cho phép những người nông dân trồng 1,500 tấn rong biển (trọng lượng khô) trong một km2, loại bỏ 40 tấn nitơ, 5 tấn phốt pho và 500 tấn các-bon.

Giảm mật độ, tăng thu hoạch

Ở một phần khác của vịnh nơi mà tảo bẹ và hàu được nuôi trồng cùng nhau, các nghiên cứu cho rằng khu vực này đang được nuôi trồng quá nhiều, vì vậy người ta quyết định giảm mật độ sản xuất rong biển xuống 33% và tác động tích cực đáng kể rằng trong vòng 5 năm hoạt động này đã dẫn đến sản lượng thu hoạch tảo bẹ tăng 30%, hàu tăng trưởng nhanh hơn và thu nhập của nông dân tăng lên 97%.

“Bằng cách đó, những người nông dân địa phương rất vui mừng nên họ làm theo chúng tôi rất nhanh chóng,” Giáo sư Fang lưu ý

Giáo sư Fang giải thích lý do đằng sau việc gia tăng sản lượng là do tốc độ hiện tại và độ chiếu sáng đã tăng lên lần lượt là 20% và 30%, điều này tạo điều kiện phát triển tốt hơn cho cả hàu và tảo bẹ.

Tin tức về mô hình “canh tác sinh thái” này đã lan truyền một cách nhanh chóng, nhờ các chương trình đào tạo trên khắp miền Bắc Trung Quốc trong những thập kỷ qua.

Một ví dụ khác về IMTA ở Vịnh Sungo do Giáo sư Fang gắn cờ bao gồm các lồng nhỏ nuôi cá vược Nhật Bản, rong câu chỉ vàng và hàu Thái Bình Dương trong lưới lồng đèn.

Theo kết quả của các cuộc nghiên cứu về sự kết hợp này, phân cá cung cấp 30% chất dinh dưỡng thiết yếu cho hàu, trong khi đó thức ăn thừa cung cấp thêm 5.6% nữa. Việc tiếp cận với những chất dinh dưỡng này có nghĩa là thịt hàu nặng hơn khoảng 30% so với thịt hào được nuôi trong hệ thống chăn nuôi độc canh.

Bào ngư, tảo bẹ và hải sâm là một trong những sự kết hợp khác đang được sử dụng ở Vịnh Sungo, hai loài sau được nuôi trồng trong lưới đèn lồng ngoài các dải rong biển dài. Hải sâm làm sạch cặn bên trong lưới nuôi bào ngư, cải thiện các điều kiện nuôi trồng và giảm tác động của trang trại lên môi trường.

“Giá rong biển rất thấp. Khi kết hợp nuôi trồng với hải sâm và bào ngư thì thu nhập của nông dân sẽ tăng lên rất nhiều”, GS Fang giải thích.

Và việc áp dụng IMTA đã mang lại lợi ích về môi trường cũng như lợi ích về mặt kinh tế, ông cho biết thêm.

Ông lưu ý: “Sau 60 năm nuôi trồng thủy sản thâm canh trong vịnh, môi trường sinh vật đáy vẫn trong lành.

Thu hoạch rong biển ở Vịnh Sungo

Cuối cùng, Giáo sư Fang nói về một khái niệm mới đó là “sự kết hợp giữa ao áp dụng IMTA, hệ thống tuần hoàn RAS trên đất liền và ruộng muối”, đây là những hoạt động hiện đang được thử nghiệm ở tỉnh Sơn Đông.

Trong hệ thống này, một số nước thải từ các đơn vị sản xuất cá ứng dụng hệ thống tuần hoàn RAS sau đó được dẫn vào các ao nuôi tôm thâm canh, rồi sau đó đi đến các ao ứng dụng IMTA đang nuôi trồng nhiều loài trước khi nước thải được chuyển đến các ruộng muối, nơi sản xuất tôm ngâm nước mặn trước rồi sau đó sản xuất muối.

“Đó là một ý tưởng mới ở Trung Quốc. Một số công ty đã thử nghiệm hoạt động này nhưng vẫn chưa có nhiều công ty thử nghiệm cho lắm,” Giáo sư Fang cho biết.

Trong quá trình này, nồng độ phốt pho và nitơ trong nước thải lần lượt giảm xuống 31% và 76% trước khi chúng đến giai đoạn cuối cùng, ông cho biết thêm.

Theo Giáo sư Fang, các ứng cử viên đầy hứa hẹn cho yếu tố IMTA của các hệ thống này bao gồm chi tôm họ Gammarus (có thể ăn rong biển và để tôm ăn) và hải sâm (có thể ăn các mảnh vụn).

“Ở Trung Quốc, chính phủ kiểm soát biển, môi trường rất nghiêm ngặt. Vì vậy, nếu các chất dinh dưỡng quá cao thì quá trình nuôi trồng của bạn sẽ bị dừng lại. Vì vậy, theo cách đó, chúng tôi tiếp tục sử dụng kết hợp các hệ thống IMTA khác nhau,”ông kết luận.


Nuôi cá rô phi chắc khỏe hơn Nuôi cá rô phi chắc khỏe hơn Xuất khẩu thủy sản năm 2021 dự báo cán đích 9 tỷ USD Xuất khẩu thủy sản năm 2021 dự báo…