Bệnh do virus - mối đe dọa cho ngành nuôi cá rô phi toàn cầu
Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Thái Lan đã cho thấy loại virus mới là TiLV không phải là loài virus duy nhất gây bệnh cho cá rô phi mà còn có virus khác. Đây là báo cáo tóm tắt đầu tiên về các bệnh do virus trên cá rô phi.
Cá rô phi với các triệu chứng điển hình của nhiễm virus TiLV. Ảnh: FAO
Mặc dù có nguồn gốc từ châu Phi, các loài cá rô phi đã được phát triển cho mục đích nuôi trồng ở hơn 90 quốc gia trên toàn thế giới. Là nhóm cá nuôi quan trọng thứ hai, chủ yếu thuộc chi Oreochromis, ngành nuôi cá rô phi rất quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm, việc làm, cũng như thu nhập và xuất khẩu cho nhiều quốc gia trên toàn thế giới (FAO, 2016; Fitzsimmons & Watanabe, 2010).
Sự xuất hiện gần đây của một loại virus mới trên cá rô phi với tên gọi Tilapia lake virus (TiLV) ở ba châu lục là Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ đã tạo ra rất nhiều sự quan tâm đến sức khỏe cá rô phi trên toàn cầu (Jansen et al, 2018; OIE, 2017), mặc dù virus này không lây truyền từ động vật sang người. Dựa trên các ấn phẩm và thông báo quốc gia cho Tổ chức Y tế Thế giới (OIE), TiLV đã được báo cáo ở 13 quốc gia sau khi nó được phát hiện lần đầu tiên ở Israel vào năm 2014. Một số lượng đáng kể các bài báo khoa học đã được công bố về Tilapia lake virus trên cá rô phi và do sự bùng phát rộng rãi của bệnh này đã làm lu mờ các bệnh virus khác ảnh hưởng đến cá rô phi.
Những virus khác đã được báo cáo có liên quan đến cá rô phi có tỷ lệ tử vong tương đối cao (20 đến 100%) trong một số trường hợp bùng phát bệnh tự nhiên hoặc thử thách trong phòng thí nghiệm. Mục tiêu của báo cáo này là làm nổi bật các trường hợp nhiễm virus cá rô phi có thể bị cộng đồng khoa học bỏ quên nhưng cũng cần phải điều tra có hệ thống. Ngoài TiLV, bảy trường hợp nhiễm virus đã được báo cáo ở cá rô phi. Các virus này bao gồm các thành viên của Aquabirnavirus , Betanodavirus , Herpesvirus , Ranavirus , Megalocytillin và L lymphocystillin.
Các nhà khoa học cũng khuyến cáo cần có biện pháp cần thiết để giám sát dịch bệnh đối với các loại virus đã biết và chưa được phát hiện trên cá rô phi để giảm thiệt hại do bệnh bùng phát trong tương lai.
Tầm nhìn trong tương lai để kiểm soát nhiễm virus ở cá rô phi
Theo lý thuyết, việc sử dụng giống cá rô phi không có mầm bệnh cụ thể (SPF) kết hợp với chương trình tiêm phòng vaccine là lý tưởng để phát triển bền vững lâu dài. Tuy nhiên, không giống như cá hồi hay các loài quan trọng về kinh tế, chương trình tiêm chủng khá thách thức đối với ngành cá rô phi trong việc tạo ra một mức giá phải chăng cho đa số nông dân nhỏ trên toàn thế giới. Mặt khác, các bệnh do virus ở cá rô phi dường như xảy ra thường xuyên hơn ở giai đoạn ấu trùng cá rô phi hoặc cá giống khi hệ thống miễn dịch của nó chưa được phát triển đầy đủ để sử dụng vaccine. Do đó, ý tưởng về cá bố mẹ cá rô phi sạch bệnh cụ thể (SPF) trong các hệ thống trại giống an toàn sinh học dường như thực tế hơn để tạo ra cá rô phi giống SPF cho thương mại trên toàn quốc và toàn cầu.
Nếu vậy, chẩn đoán phân tử tiên tiến sẽ hỗ trợ cơ quan có trách nhiệm trong việc chứng nhận trại sản xuất SPF hàng năm hoặc cấp cá rô phi SPF cho ngành nuôi. Điều này đòi hỏi sự hợp tác chiến lược của các nhà sản xuất, các ngành khoa học và các nhà hoạch định chính sách ở mỗi quốc gia.
Báo cáo này đã cho thấy có rất nhiều mầm bệnh do virus gây ra cho cá rô phi, và chưa có phương pháp điều trị cụ thể, do đó người dân cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh hơn chữa bệnh như:
– Xử lý nguồn nước nuôi cá thật kỹ để giảm tác tác nhân gây bệnh cho cá, định kỳ bổ sung vitamin C, tỏi, chất kích thích miễn dịch cho cá nuôi.
– Áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, tăng cường quản lý ao nuôi để hạn chế mầm bệnh lây lan qua dụng cụ, phương tiện và con người (sử dụng các biện pháp vệ sinh, tiêu độc sát trùng).
– Nếu có hiện tượng cá rô phi chết nhiều bất thường, phải báo ngay cho cơ quan thú y nơi gần nhất để triển khai kịp thời các biện pháp phòng chống bệnh.
– Cá rô phi giống trước khi thả nuôi cần được lấy mẫu gửi phòng thử nghiệm có đủ năng lực để xét nghiệm sàng lọc đối với mầm bệnh do virus.
– Tuyệt đối không vận chuyển cá rô phi sống từ các ao nuôi đã bị bệnh sang các ao/vùng nuôi không bị bệnh để hạn chế dịch bệnh lây lan.
– Không vứt cá chết, cá bệnh, xả thải nước ao nuôi bị bệnh nhưng chưa qua xử lý ra ngoài môi trường làm lây lan dịch bệnh. Hố tiêu hủy cá chết phải cách xa nguồn nước, khu dân cư ít nhất 50 m. Sử dụng vôi bột rắc xuống hố và phun thuốc sát trùng quanh khu vực hố.
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ