Cá lăng Biện Pháp Kỹ Thuật Để Hạn Chế & Khắc Phục Bệnh Cá Trong Giai Đoạn Chuyển Mùa

Biện Pháp Kỹ Thuật Để Hạn Chế & Khắc Phục Bệnh Cá Trong Giai Đoạn Chuyển Mùa

Ngày đăng 05/12/2012

Biện Pháp Kỹ Thuật Để Hạn Chế & Khắc Phục Bệnh Cá Trong Giai Đoạn Chuyển Mùa

Với xu hướng thâm canh hóa trong nghề nuôi cá thì bệnh cá xảy ra trong quá trình nuôi, nhất là vào gia đoạn chuyển mùa, là điều khó tránh khỏi và nó cũng đã gây ra nhiều tổn thất cho người nuôi. Tuy nhiên, nếu người nuôi tuân thủ một số yêu cầu kỹ thuật sau đây sẽ góp phần hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra do cá bệnh.

I. Những nguyên nhân làm cá bị bệnh

1. Chết lượng nước bị thay đổi

- Nhiệt độ nước thay đổi đột ngột vào tháng 12 đến tháng 2 (có thể xuống thấp đến 16 – 22 độ C) hoặc nhiệt độ tăng cao tháng 3 đến tháng 5 (lên đến 30 – 35 độ C) đều làm cho cá bỏ ăn, suy yếu tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh cá phát triển, làm cho cá dễ bệnh.

- Nguồn nước nuôi bị nhiễm bẩn bởi chất thải từ các nhà máy, dầu xả các ghe tàu, thuốc trừ sâu, và nước phèn đổ ra từ ruộng vào các tháng mùa khô cũng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cá nuôi.

- Khi nước đứng hoặc chảy yếu, cá nuôi trong điều kiện mật độ cao có thể thiếu oxy để thờ, cá sẽ bơi hỗn loạn, nhảy nhào trong lồng và có thể chết. Lúc này cần phải kịp thời dùng máy bơm quạt nước để tăng cường trao đổi nước, cải thiện hàm lượng oxy trong môi trường nuôi.

- Khi nước chảy quá mạnh, cá phải bơi lội liên tục, tiêu tốn nhiều năng lượng, giảm sức, chậm lớn, từ đó tạo điều kiện cho mầm bệnh dễ dàng xâm nhập vào cá nuôi. Trường hợp này phải điều chỉnh khoảng cách giữa các thanh gỗ hay tre ở hai đầu bè cho thích hợp.

2. Chất lượng thức ăn kém

Chất lượng thức ăn có vai trò rất quan trọng đối với nuôi cá thâm canh, đặc biệt là nuôi cá bè. Thức ăn chất lượng tốt sẽ phòng tránh các bệnh dinh dưỡng và cần cho việc phòng các bệnh liên quan tới nhiễm trùng và stress khác.

Nếu cá bị đói sau một thời gian dài hoặc thức ăn kém chất lượng sẽ dẫn đến cá bị suy yếu, chậm lớn và có thể tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh tấn công.

3. Thiếu cẩn thận khi chăm sóc cá

- Các dụng cụ cho ăn không được vệ sinh thường xuyên là nơi ẩn chứa mầm bệnh.

Các dụng cụ vận chuyển, bắt cá như lưới vợt, thùng…có thể làm xây xát cá trong quá trình thao tác và vì thế mầm bệnh có điều kiện xâm nhập vào cá nuôi. Do đó phải dùng đến các dụng cụ nhẵn, lưới không gút để hạn chế trường hợp này.

4. Nguồn giống kém chất lượng

Cá có thể đã mắc bệnh từ nguồn giống thả nuôi chưa được kiểm tra chất lượng, chưa được chọn lựa kỹ càng, mang mầm bệnh hoặc giống chưa được xử lý diệt trùng, khi cá thả xuống nuôi một thời gian gặp thời tiết thay đổi sẽ thuận lợi cho mầm bệnh phát triển. Cá yế là cơ hội cho bệnh cá phát triển và gây hại cho cá trong ao nuôi.

II. Phương pháp phòng bệnh cho cá

Việc duy trì sức khỏe tốt cho cá rất quan trọng để việc nuôi cá có lợi nhuận. Tăng trưởng chậm, tiêu tốn thức ăn nhiều, năng suất thấp, tỷ lệ nhiễm bệnh và chết tăng, hậu quả dẫn đến lợi nhuận thấp do kết quả sức khỏe của cá kém.

Trong giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi đột ngột dễ làm cho cá bị tress, tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển và xâm nhập vào vật nuôi. Nên điều cơ bản giữ sức khỏe và phòng bệnh cho đàn cá là việc tránh stress bằng cách duy trì chất lượng môi trường qua việc chăm sóc đúng.

1. Cải tạo môi trường

a. Chuẩn bị ao, bè nuôi

Sau khi thu hoạch, các ao, hầm, bè muốn sử dụng lại nhất thiết phải được cải tạo để tạo môi trường sống tốt cho thủy sản nuôi nhằm phòng bệnh và nâng cao năng suất cá nuôi.

- Tát cạn nước, sên vét bùn ra khỏi ao (không để lại bùn thối trong ao), phơi ao 5 – 7 ngày.

- Tu sửa lại bờ ao, cống bọng, làm vệ sinh mương cấp, thoát nước.

b. Tẩy độc cho ao, bè nuôi

- Dùng vôi (CaO) để tẩy độc và trung hòa pH: sử dụng 10 – 15 kg/100m2 rãi đều đáy ao; trường hợp ao có phèn (pH nhỏ hơn 5) thì dùng 15 – 20 kg/100m2; đối với những ao không thể rút cạn nước, dùng vôi từ 0,5 – 1kg/m3 để rãi trực tiếp xuống ao. Nên rãi vào ngày nắng, chú ý những nơi có bùn đọng.

- Dùng rễ cây thuốc cá: 4g/m3 hay saponin để diệt tạp.

- Chà rửa sạch, phơi khô lồng bè, sau đó quét hoặc phun Clorua vôi Ca(OCI)2 với lượng 200 – 250g/m3 bè.

2. Tăng cường chăm sóc quản lý

a. Tẩy trùng cho cá

Khi nhận giống về nuôi, trước khi thả nên:

- Tắm cá: bằng cách dùng muối ăn 2 – 4g/l trong 15 – 20 phút hoặc dùng formalin 25 – 30 g/m3 để diệt trùng và nấm gây bệnh cho cá.

- Phun thuốc xuống ao: dùng Clorin 1g/m3 hoặc CuSO4 0,2-0,5g/m3 nước ao.

Trong quá trình nuôi, định kỳ bón vôi xuống ao từ 1,5-2kg /100m3 và treo túi thuốc trong bè: có thể dùng Clorin 10 – 20 g/m3 bè.

b. Tẩy trùng nơi cho ăn

Vôi 2 – 4kg/túi treo quanh chổ cho ăn, 5 – 7 ngày thay túi.

Clorin 200 – 250g/m3 để tẩy trùng dụng cụ trong 12 – 24 giờ.

c. Chọn giống thả

Không nên thả với mật độ quá dày, giống thả mới hoặc bổ sung nên yêu cầu được cung cấp giống đã được chứng nhận kiểm dịch và phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng sau:

- Kích cỡ đồng đều, ngoại hình cân đối, không dị hình.

- Khỏe manh, không bị nhiễm bệnh.

- Không xây xát, nhiều nhớt, bơi lội nhanh nhẹn.

Lưu ý, trong quá trình nuôi nên:

- Định kỳ 2 lần / tuần bổ sung Vitamin C cho cá ăn với liều trộn 40g/100kg thức ăn.

- Dùng thuốc tiêu Nabica 2 lần / tuần với liều trộn 30 viên / 100kg thức ăn.

- Có thể dùng Thyromin cho ăn 2 lần / tuần (theo hướng dẫn ghi trên bao bì)


Các Bệnh Thường Gặp Và Cách Điều Trị Các Bệnh Thường Gặp Và Cách Điều Trị Bảy Biện Pháp Phòng Bệnh Cho Cá Lăng Bảy Biện Pháp Phòng Bệnh Cho Cá Lăng