Cách mạng hóa nghề nuôi cá mú
Sự tăng trưởng của nghề nuôi cá mú đã bị kìm hãm bởi những khó khăn trong giai đoạn ương ấu trùng. Tuy nhiên, theo CFEED, việc sử dụng giáp xác chân chèo ở giai đoạn cho ăn đầu tiên đang có những cải thiện rõ rệt trong sản xuất.
Một trong những hạn chế chính đối với sự phát triển của nghề nuôi cá mú hiện nay là thiếu cá giống chất lượng cao. Nguyên nhân là do sự hạn chế về nguồn trứng chất lượng tốt và kích thước cực kỳ nhỏ của ấu trùng cá mú mới nở. Những phát triển gần đây về kỹ thuật bảo quản lạnh để lưu trữ tinh trùng cá mú cọp ở Việt Nam có thể giúp giải quyết vấn đề đầu tiên. Thứ hai, kích thước nhỏ khiến ấu trùng cá mú trở nên mỏng manh và cần những con mồi sống nhỏ có đủ giá trị dinh dưỡng.
Luân trùng
Mặc dù việc cho ăn luân trùng trong thời kỳ ấu trùng đầu tiên đã cho phép nuôi nhiều loài cá mú khác nhau, nhưng tỷ lệ sống thường thấp, tốc độ tăng trưởng và chất lượng của ấu trùng cũng khác nhau. Để đảm bảo luân trùng có thành phần dinh dưỡng đầy đủ là điều không đơn giản, chúng thường thiếu các chất dinh dưỡng chính như taurine, Vitamin A, Iốt và các axit béo như DHA và EPA. Do đó, tìm kiếm các giải pháp thay thế nguồn cấp dinh dưỡng đã được ưu tiên.
Trước tình hình đó, một số nghiên cứu mới cho thấy tiềm năng cung cấp bởi việc ứng dụng động vật chân đốt làm thức ăn cho cá mú ấu trùng. Đối với cá mú san hô báo ấu trùng (Plectropomus leopardus), tỷ lệ sống tăng gấp 10 lần, ngoài sự phát triển nhanh hơn đã được quan sát thấy (Burgess, Callan, Touse, & Santos, 2019) (Melianawati, Astuni, & Suwirya, 2013). Việc bổ sung giáp xác chân chèo vào chế độ ăn cũng làm tăng gấp 4 lần tỷ lệ sống của cá mú cọp (Epinephelus fuscoguttatus) (Rimmer, et al., 2011). Ngoài ra, các thông số tăng trưởng như tổng chiều dài, chiều sâu cơ thể và chiều dài gai lưng và xương chậu đều ảnh hưởng tích cực, tất cả đều tạo ra ấu trùng khỏe hơn.
Mặc dù có những kết quả tốt nhưng việc thiết lập các đơn vị sản xuất giáp xác chân chèo không phải là lựa chọn cho hầu hết các trại giống, vì chúng đòi hỏi nhiều công việc và không phải lúc nào cũng tạo ra nguồn cung cấp ổn định. Tuy nhiên, công ty CFEED đã lấy trứng giáp xác chân chèo và ấp theo yêu cầu tương tự như trứng Artemia. Những giáp xác chân chèo nauplii mới nở có chiều dài chỉ dưới 100 µm, là kích thước lý tưởng cho ấu trùng cá mú non. Điều này đã dẫn đến một số trại giống thương mại bắt đầu đưa loài giáp xác này vào thức ăn của họ. Một trong số đó, Eco Aquatology Asia ở Thái Lan, cho biết việc bổ sung giáp xác chân chèo trong thức ăn cho trại giống của họ giúp cá con mạnh mẽ và phát triển nhanh hơn, cuối cùng giúp tăng mức sản lượng.
Lợi ích dinh dưỡng của giáp xác chân chèo
Một lợi ích từ việc cho ăn giáp xác chân chèo là khả năng kích thích hoạt động của enzym trong ruột của ấu trùng cá mú. Đối với cá mú cọp, sự gia tăng đáng kể phản ứng với enzym (protease) đã được chứng minh khi bổ sung nauplii trong khẩu phần ăn, làm tăng hoạt tính enzym lên 25,8% so với thức ăn sống truyền thống như luân trùng và Artemia (Rimmer, et al., 2011). Ngay cả việc bổ sung một tỷ lệ nhỏ các động vật chân đốt cũng đủ để kích thích sự gia tăng này. Một kết quả tương tự cũng được thấy đối với cá hồi san hô ấu trùng, trong đó việc bao gồm toàn bộ hay một phần của động vật chân đốt đều làm tăng đáng kể hoạt động của các enzym tiêu hóa protease, amylase và lipase (Melianawati, Pratiwi, Puniawati, & Astuti, 2015).
Một yếu tố khác được coi là quan trọng đối với ấu trùng cá mú là thành phần axit béo của con mồi sống. Ngoài ARA và EPA, axit béo DHA đã được xác định là có tầm quan trọng thiết yếu đối với ấu trùng cá mú cọp (Rimmer, et al., 2011). Khi bị bỏ đói, ấu trùng bảo tồn chất này ở mức độ cao hơn so với các axit béo khác, cho thấy nó cần thiết như thế nào đối với sự tăng trưởng và phát triển ban đầu của ấu trùng.
Đưa ra giải pháp để các nhà sản xuất cung cấp cho ấu trùng cá chế độ ăn tự nhiên là một trong những mục tiêu của công ty CFEED. Với việc sản xuất trong nhà, an toàn về mặt sinh học đối với loài giáp xác chân chèo, chúng có thể cung cấp nguồn trứng thương mại ổn định cho các trại giống trên khắp thế giới. Những quả trứng này có thể được nở theo yêu cầu, cung cấp cân bằng dinh dưỡng cho ấu trùng cá. Kích thước nhỏ của nauplii mới nở khiến chúng trở thành thức ăn lý tưởng trong giai đoạn nhạy cảm nhất đối với ấu trùng cá mú. Kết hợp với thành phần dinh dưỡng lý tưởng cho lần ăn đầu tiên, giải pháp dễ dàng đưa giáp xác chân chèo vào nuôi thương phẩm cá mú thương phẩm có thể cải thiện đáng kể năng suất của các trại giống trong tương lai.
Trong tự nhiên, giáp xác chân chèo được coi là nhóm động vật phù du quan trọng nhất, tạo thành một liên kết quan trọng giữa sản xuất sơ cấp và ấu trùng cá. Các nghiên cứu về hàm lượng ruột trong ấu trùng của các loài cá nhiệt đới ven biển cho thấy rằng phần lớn sống dựa vào các loài giáp xác chân chèo làm nguồn thức ăn chính của chúng (Sampey, Mckinnon, Meekan & Mccormick, 2007).
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ