Cá trê Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần 1

Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần 1

Tác giả 2LUA.VN biên dịch, ngày đăng 29/04/2021

Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần 1

Bài hướng dẫn này từ Chương trình Thông tin Các loài Thủy sản nuôi của FAO cung cấp thông tin về vấn đề chăn nuôi cá trê Bắc Phi.

Danh tính

Cá trê Gariepinus Burchell, 1822 [Họ cá trê]

Tên do FAO đặt: tiếng anh - North African catfish, tiếng pháp - Poisson-chat nord-africain, tiếng tây ban nha - Pez-gato

Đặc điểm sinh học

Thân hình thon dài. Đầu to, lõm và xương xẩu với đôi mắt nhỏ. Xương chẩm hẹp và góc cạnh; mang xòe rộng; cơ quan khe mang phát triển từ vòm mang; vòm mang đầu tiên có 24 tới 110 lá mang; cleithrum (xương dăm - xương chạy dọc theo xương sống) nhọn, hẹp với các gờ xuôi theo chiều dọc và có đầu nhọn. Mép miệng rộng. Bốn cặp râu nhô ra. Vây lưng và vây hậu môn dài; không có gai vây lưng và vây mỡ. Mép trước của gai ngực có răng cưa. Vây đuôi tròn. Màu sắc thay đổi từ vàng cát qua xám đến màu ô liu với các mảng màu nâu lục sẫm, bụng màu trắng.

Xem tờ thông tin về loài SIDP

Thư viện hình ảnh

Hồ sơ

Bối cảnh lịch sử

Cá trê châu Phi được đề cập đến trong nghề nuôi trồng thủy sản dựa trên đánh bắt truyền thống (được gọi là wheddos ở Benin và Ghana và cá barochois ở Mauritius) trong nhiều thế kỷ. Cách nuôi của họ trong thời hiện đại cũng theo xu hướng tương tự như phương pháp nuôi cá rô phi: các cuộc thử nghiệm thuần hóa đầu tiên vào năm 1950 và việc nuôi cá trê Bắc Phi (Clarias gariepinus) như là loài cá da trơn được ưa chuộng nhất của ngành nuôi trồng thủy sản vào giữa những năm 1970. Tuy nhiên, cá khó sinh sản tự nhiên trong các điều kiện chăn nuôi. Do đó, các quy trình nhân giống nhân tạo dựa trên kích thích hormone đã được phát triển từ những năm 1980. Nghiên cứu về sự phát triển của công nghệ canh tác đã được tiến hành ở Châu Âu (Bỉ và Hà Lan) cũng như ở Châu Phi (ví dụ như Cộng hòa Trung Phi, Nam Phi, Côte d’Ivoire, Nigeria).

Vì nhiều lý do, bao gồm cả sự sẵn có hiện tại của loài này ở hầu hết các vùng nước của nó, dân số ngày càng mở rộng với nhu cầu về cá ngày càng tăng cùng với kỹ năng và cơ sở hạ tầng kỹ thuật vượt trội hơn so với các nước ở châu Phi khác, Nigeria chắc chắn đã được hưởng lợi nhiều nhất từ những loài nghiên cứu này.

Nói chung, cá trê Phi chủ yếu được sử dụng làm 'cá cảnh sát' để kiểm soát tình trạng sinh sản quá mức trong chăn nuôi cá rô phi hỗn hợp giới tính bằng ao đất. Ở Uganda, sự phát triển của hoạt động nuôi cá trê Phi có liên quan nhiều hơn đến việc sử dụng chúng làm mồi câu cá ở Hồ Victoria.

Gần đây, cùng với sự phát triển của thức ăn ép đùn được cân bằng đã có sự đa dạng hóa rất lớn về môi trường chăn nuôi ở hầu hết các nước châu Phi nơi mà loài cá da trơn này được nuôi, bao gồm cả việc sử dụng bể bê tông hoặc bể sợi thủy tinh và các hệ thống tuần hoàn nước.

Các quốc gia sản xuất chính

Bản đồ dưới đây được xây dựng từ các số liệu thống kê do FAO báo cáo về loài này. Các hoạt động canh tác cũng diễn ra ở các nước khác bao gồm Trung Quốc, Thái Lan, Ai Cập, Uganda.

Các quốc gia sản xuất cá trê Phi chính (theo số liệu Thống kê Thủy sản của FAO năm 2006)

Môi trường sống và sinh học

Cá trê Bắc Phi (thường được gọi đơn giản là 'cá trê Phi' trong phần còn lại của tờ thông tin này) có phân bố gần như khắp Châu Phi (nhưng tự nhiên không có ở các tỉnh Maghreb, Thượng và Hạ Guinea và Cape). Chúng hiện diện tương đương nhau ở Gioóc-đa-ni, Li Băng, Israel và Thổ Nhĩ Kỳ. Cá trê Phi cũng đã được đưa vào hầu hết các nước khác ở Châu Phi, cũng như một số quốc gia ở Châu Âu, Châu Á và Nam Mỹ. Tương tự như các loài khác, Trung Quốc đã nuôi cá trê Phi trong các cánh đồng lúa của mình và hiện là một trong những nước sản xuất chính, mặc dù loài này không xuất hiện riêng lẻ trong bảng số liệu thống kê sản lượng của đất nước này.

Loài này được tìm thấy ở các hồ, suối, sông, đầm lầy và vùng ngập lũ, nhiều nơi bị khô cạn theo mùa. Môi trường sống phổ biến nhất là các đầm lầy và hồ ngập nước, đây là những nơi chúng có thể tồn tại trong suốt (các) mùa khô nhờ các cơ quan thở khí phụ của chúng. Cá trê Phi thực hiện các cuộc di cư ngang từ các vùng nước rộng lớn hơn (nơi mà ở đó chúng kiếm ăn và trưởng thành ở khoảng 12 tháng tuổi) đến các khu vực biển bị ngập nước tạm thời để sinh sản. Những đợt di cư sinh sản này thường diễn ra ngay sau khi bắt đầu (các) mùa mưa. Sự trưởng thành của tuyến sinh dục hoàn thiện có liên quan đến mực nước dâng. Trong điều kiện môi trường ổn định, cá trê Phi trưởng thành có tuyến sinh dục trưởng thành khi tròn năm tuổi. Trong điều kiện lý tưởng, một con cá mái trưởng thành có thể đẻ khoảng 60,000 trứng/ kg. Trước khi giao phối, cá trống cạnh tranh gay gắt với cá cái mà chúng giao phối theo cặp đơn lẻ, con cái ngoáy mạnh đuôi để hòa hợp trứng và tinh trùng rồi đẻ trứng đã được thụ tinh. Trứng kết dính dính vào thảm thực vật ngập nước và nở trong khoảng thời gian từ 20–60 giờ (tùy thuộc vào nhiệt độ). Túi noãn hoàng được hấp thu trong vòng từ 3–4 ngày và dạ dày hoàn toàn hoạt động trong vòng 5–6 ngày sau khi bắt đầu cho ăn ngoại sinh. Sự phân hóa giống (trống/mái) bắt đầu từ 10 đến 15 ngày sau khi trứng nở. Ấu trùng kiếm ăn và phát triển nhanh chóng ở vùng ngập nước giàu chất dinh dưỡng ấm áp (nhiệt độ thường >24°C), đạt trọng lượng 3-7 g trong vòng 30 ngày. Khi các khu vực ven biển bị ngập lụt khô cạn khi hết mưa, cá con và cá trưởng thành tìm đường trở lại vùng nước sâu hơn. Ở những vùng có hai mùa mưa thì thường có hai mùa sinh sản cao điểm trong năm, tương ứng về cường độ với độ lớn của các trận mưa.

Chất chứa trong dạ dày của các loài cá trê thường bao gồm côn trùng (trưởng thành và ấu trùng), giun, động vật chân bụng, động vật giáp xác, cá nhỏ, thực vật thủy sinh và những mảnh vụn, nhưng hạt và quả mọng trên cạn, thậm chí có cả chim và động vật có vú nhỏ cũng đã được quan sát thấy. Ấu trùng hầu như chỉ phụ thuộc vào động vật phù du trong tuần kiếm ăn ngoại sinh đầu tiên. Bởi vì số lượng khe mang nhiều nên cá trê Phi lớn cũng nhắm mục tiêu vào động vật phù du làm nguồn thức ăn chính. Mặc dù nói chung là loài ăn tạp những cá trê Phi tiêu hóa các chế độ ăn giàu protein tương đối tốt hơn so với thức ăn chứa nhiều carbohydrate. Hầu hết các loài cá Trê đều là những kẻ săn mồi chậm chạp, với đôi mắt rất nhỏ, sử dụng bốn cặp râu của chúng để cảm nhận đường đi của chúng trong bóng tối và tìm kiếm thức ăn được phát hiện nhờ hàng loạt các xung thần kinh vị giác cực nhạy bao phủ râu và đầu. Khoảng 70% hoạt động kiếm ăn diễn ra vào ban đêm. Nghiên cứu ở Nam Phi cho thấy rằng việc loại bỏ các sợi râu sẽ làm giảm 23% hiệu quả cho ăn đối với cá trê Phi. Nói chung, cá trê Phi bắt con mồi bằng cách nuốt chửng chúng bằng cách há miệng nhanh chóng rồi sau đó giữ chúng lại trên các khe mang hoặc những chiếc răng cong quắp được bố trí trên hàng xương răng, trước hàm, xương lá mía và hầu họng. Cá trê Phi thể hiện nhiều chiến lược kiếm ăn khác nhau bao gồm hút bề mặt của côn trùng trên cạn và các mảnh thực vật bị trôi vào vùng nước do mưa lớn và săn bắt các loài họ cá rô phi nhỏ. Tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, đạt đến kích thước tối đa trong vòng vài năm. Tăng trưởng năm đầu tiên gần như tuyến tính dẫn đến quy mô ban đầu tăng vọt.

Sản xuất

Chu kỳ sản xuất

Chu kỳ sản xuất của cá trê Phi


Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần 2 Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần… Hương nhu trắng kích thích miễn dịch trên cá trê phi Hương nhu trắng kích thích miễn dịch trên…