EMS: Ảnh hưởng và cách phòng tránh - Phần 1
Ngày 10/12/2013, tại Việt Nam, Liên minh Nuôi trồng thủy sản toàn cầu (GAA) đã tổ chức 1 buổi hội thảo trực tuyến “Hội chứng tôm chết sớm (EMS): Quản lý dịch bệnh gây tôm chết hàng loạt. Hội thảo có phần trình bày của Chủ tịch GAA, Giáo sư George Chamberlain và trả lời hỏi đáp của Giáo sư Donald Lightner từ Đại học Arizona (Hoa Kỳ) về EMS.
Sau đây là một số nội dung chính của buổi hội thảo:
EMS - hội chứng tôm chết sớm, hay còn gọi là hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS) – là một dịch bệnh phá hủy hệ tiêu hóa của tôm và làm tôm chết sau 30 ngày thả nuôi. EMS lần đầu tiên được phát hiện ở Trung Quốc vào năm 2009, bùng phát ở Việt Nam năm 2010, sau đó xuất hiện ở bán đảo Malaysia và phía đông Malaysia (khu vực phía bắc của đảo Borneo) năm 2011. Dịch bệnh này xuất hiện ở Thái Lan năm 2012 và lan sang Mexico năm 2013. Hiện đã có thông tin về dịch EMS bùng phát ở Ấn Độ tuy nhiên thông tin này chưa được chính thức xác nhận.
EMS đã ảnh hưởng như thế nào tới ngành nuôi tôm toàn cầu?
Năm 2013, sản lượng tôm thế giới giảm khoảng 15% so với năm 2011. Nếu ngành dự kiến tăng trưởng 5%/năm, sản lượng thực tế dưới mức kỳ vọng 23%. Sản lượng tôm toàn cầu dự kiến đạt khoảng 4 triệu tấn/năm. Nếu giảm 25%, có nghĩa là giảm 1 triệu tấn. 1 triệu tấn tương đương với 1 tỷ kilogram. Giả sử 5 USD/kg, ngành nuôi tôm nuôi đã mất khoảng 5 tỷ USD.
Một trong những bước tiến đầu tiên trong nghiên cứu về EMS là xác định được những dấu hiệu cơ bản của bệnh. Điều này rất quan trọng vì người nuôi thường coi bất kỳ bệnh nào xuất hiện ngay sau khi thả nuôi đều là EMS. Sau khi các dấu hiệu cơ bản được xác định, giai đoạn cấp tính được cho là giai đoạn sinh ra độc tố, xuất hiện hoạt động khác thường ở gan tụy và làm suy yếu các tế bào biểu mô hình ống. Sau giai đoạn cấp tính là giai đoạn cuối của bệnh, lúc này vi khuẩn có cơ hội tấn công gan tụy đã bị tổn thương, khiến tôm chết. Bước tiếp theo là xác định xem bệnh có thể lây truyền sang các con tôm khác hay không.
Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu về EMS, có một phát hiện lớn về tác nhân gây bệnh. Một số người cho rằng đó là do 1 loại virut, một số người khác cho rằng đó là một chất độc. Tảo độc, chất tiêu diệt thủy sản có vỏ và những chất độc ở đất đều được cho là những nguyên nhân gây bệnh. Tất cả các tác nhân này đều được chứng minh sẽ khiến tôm chết. Cũng có nhiều nghiên cứu về mức độ lan truyền bệnh EMS bằng cách sử dụng mô tôm đông lạnh nhưng không thành công. Sau đó, vào mùa hè năm 2012, Quỹ Nuôi trồng có trách nhiệm (Responsible Aquaculture Foundation) và Ngân hàng Thế giới đã đề xuất một đoàn công tác đến Việt Nam điều tra về dịch bệnh ở các trại ương giống và các trại nuôi. Đoàn đã rất tích cực trong việc cung cấp nhiều thông tin về diễn biến của bệnh và lấy mẫu tôm bệnh. Sau đó, đã có một bước tiến lớn ở Việt Nam khi Giáo sư Trần Hữu Lộc thực hiện thành công việc truyền bệnh sử dụng mô tươi. Mô tươi được cấy vào tôm khỏe trong vòng 5 ngày và khiến tôm mang các dấu hiệu điển hình của bệnh EMS. Mô này chỉ hoạt động khi mô dạ dày từ tôm bị bệnh EMS được cấy vào tôm khỏe, điều này cho kết luận rằng EMS là 1 bệnh truyền nhiễm do tác nhân vi khuẩn được tìm thấy ở dạ dày tôm bệnh gây ra. Mầm bệnh tấn công dạ dày tôm và sinh ra chất độc phá hủy gan tụy của tôm.
Các nghiên cứu sâu hơn từ phòng thí nghiệm của Giáo sư Lightner tại Đại học Arizona cho thấy vi khuẩn gây bệnh được xác định là Vibrio parahaemolyticus. Nghiên cứu của ông cũng chứng tỏ dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus gây bệnh trên tôm không chứa chất độc gây bệnh cho người. Điều này có nghĩa là vi khuẩn không ảnh hưởng tới người. Nghiên cứu này cũng mở đường cho các thử nghiệm chẩn đoán dựa trên kỹ thuật sao chép sinh hóa (PCR) để xác định bệnh ở trại ương giống và vật nuôi. Thử nghiệm chẩn đoán dự kiến sẽ được áp dụng cho phòng thí nghiệm tư nhân đầu tháng 1/2014.
Việc nghiên cứu một căn bệnh do vi khuẩn tương tự gây ra cũng rất quan trọng. Ví dụ, vi khuẩn phát quang Vibrio có tên gọi là “Vibrio harveyi” đã phá hủy ngành nuôi tôm ở Philippines vào đầu những năm 1990. Một số bài học liên quan cũng được rút ra từ nghiên cứu này. Ví dụ, ở trại ương giống, người ta phát hiện Vibrio harveyi tấn công trứng tôm. Người ta buộc phải rửa trứng để khi ấu trùng được ương, ấu trùng sẽ có tỉ lệ sống nhiều hơn. Điều này có nghĩa là việc kiểm soát cơ sở ương giống sẽ rất quan trọng trong việc ngăn ngừa EMS phát tán từ giống bố mẹ sang tôm post.
Tiếp tục đề cập đến một số kinh nghiệm thực tế về EMS thông qua thông tin được chia sẻ vào tháng 10/2013 bởi Agrobest, một trại nuôi tôm lớn ở Malaysia do Noriaki Akazawa quản lý. Ông Akazawa đã mô tả Agrobest đã tăng dần sản lượng tôm sú như thế nào tuy nhiên khi nó chuyển sang tôm chân trắng, sản lượng tăng nhanh hơn đạt 11.000 tấn cuối năm 2009. Sau đó, đầu năm 2010, trại nuôi bị thiệt hại bởi EMS, sản lượng bị giảm xuống 1 nửa. Sự bùng phát dịch ở Agrobest có liên quan tới lô tôm post từ một trại ương giống. Một số trại nuôi khác có dịch bệnh cho thấy mật độ tảo xanh quá nhiều, khiến nồng độ pH trong ao cao. Bằng cách kiểm soát chặt chẽ ao nuôi để kiểm soát không cho tảo phát triển quá mạnh, kiểm soát bùn đáy và chất lượng nước, Agrobest đã có thể phục hồi dần dần và tăng sản lượng lên 14 tấn/ha. Tuy nhiên sau đó, giữa năm 2013, trại nuôi này lại bị thiệt hại do dịch EMS bùng phát lần hai và phải tìm ra các giải pháp kiểm soát mới. Các cuộc thử nghiệm ở Agrobest chỉ ra rằng tôm sú không bao giờ bị nhiễm EMS, ngay cả khi chúng được nuôi trong các ao gần với ao nuôi tôm chân trắng bị bệnh. Các trại nuôi chủ yếu nhập tôm post từ tôm giống bố mẹ tự nhiên, rất nhiều trong số đó bị nhiễm Baculovirus và các bệnh khác. Trại nuôi gặp khó khăn trong việc mua đủ tôm sú post sạch bệnh để đáp ứng chỉ tiêu sản lượng. Một nguồn tôm sú post tin cậy sạch bệnh là rất cần thiết đối với trại nuôi.
CP Group đã có nhiều thử nghiệm về EMS và doanh nghiệp này đã thành lập một trung tâm để thử nghiệm nhiều cách chữa trị khác nhau cho tôm nhiễm bệnh. Phòng thí nghiệm của Giáo sư Lightner cũng có một trung tâm tương tự. Hoạt động của CP và Giáo sư Lightner đang đóng góp những thông tin hữu ích về khả năng chữa bệnh EMS. Một trong những điều mà họ rút ra được là mầm bệnh Vibrio parahaemolyticus phát triển rất nhanh. Trên thực tế, nó có thể nhanh chóng cạnh tranh với các vi khuẩn khác. Khi ao nuôi được tẩy trùng bằng clo trước khi thả nuôi để diệt khuẩn, V. parahaemolyticus có thể phục hồi nhanh hơn nhiều các vi khuẩn cạnh tranh, do vậy bệnh này có thể phát triển mạnh hơn sau khi khử trùng bằng clo. Nếu không sử dụng kịp thời vi khuẩn có lợi để khôi phục tính đa dạng của cộng đồng vi khuẩn, nó có xu hướng xâm lấn tới bề mặt. Vi khuẩn này được tìm thấy ở đáy ao và sản xuất ra chất độc cực mạnh nhưng vi khuẩn này không sinh ra độc tố cho tới khi chúng đạt được một mật độ nhất định. Chúng không sinh ra độc tố cho tới khi chúng có sức phá hủy đủ mạnh. Do vậy EMS được coi là “Tác nhân gây chết tôm hoàn hảo”.
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ