Giảm kháng sinh trong chăn nuôi
Những thách thức có vẻ khó khăn và khả năng gia tăng bệnh tiêu chảy sau cai sữa ở lợn con, tăng viêm vú sữa hoặc viêm ruột hoại tử ở gia cầm đang khiến chúng ta lo lắng khi kháng sinh không còn được sử dụng trong hệ thống sản xuất. Tuy nhiên, những lo lắng này có thể không có cơ sở.
Ảnh: Dreamstime
Người ta nói rằng 'ngừng sử dụng kháng sinh', 'giảm sử dụng kháng sinh' và những dự đoán đáng sợ là thuốc kháng sinh sẽ ngừng hoạt động và đưa chúng ta trở lại thời kỳ tiền kháng sinh. Có vẻ như điều này gây trở ngại cho chúng ta để ngăn ngừa bệnh tật, điều trị bệnh và duy trì sản xuất có hiệu quả về chi phí.
Các kháng sinh đã và đang được lựa chọn nhằm điều trị tốt nhất cho bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng. Tuy nhiên, mỗi kháng sinh đều được sử dụng, cho dù thận trọng trong điều trị hoặc dự phòng hoặc không dự phòng cũng có nguy cơ xuất hiện kháng kháng sinh (AMR) đối với sức khoẻ và sự an toàn của con người cũng như vật nuôi trong tương lai. Gần đây, EU đã công bố "Kế hoạch hành động sức khoẻ châu Âu chống lại đề kháng kháng sinh" (Ủy ban Châu Âu, năm 2017). Kế hoạch hành động này sẽ cho phép và thúc đẩy các quốc gia đưa ra các hoạt động hỗ trợ bao gồm phòng chống nhiễm trùng, các biện pháp an toàn sinh học và các biện pháp kiểm soát trong chăm sóc sức khoẻ con người và chăn nuôi nhằm giảm sự nhiễm trùng và do đó cần phải có kháng sinh.
Một hệ thống sản xuất vật nuôi khỏe mạnh
Sai lầm lớn nhất của các hệ thống sản xuất động vật là chúng được thiết kế và sử dụng theo cách đòi hỏi thuốc kháng sinh để duy trì sức khoẻ và phúc lợi. Phần lớn các loại thuốc kháng sinh trong chăn nuôi không được sử dụng để chữa bệnh cho động vật bị bệnh, nhưng được sử dụng ở hệ thống sản xuất chưa hoàn chỉnh. Mặc dù các chất thay thế cho kháng sinh được tìm kiếm liên tục, nhưng qua hàng thập kỷ nghiên cứu có rất ít lựa chọn tốt và do đó chúng ta cần tìm kiếm các giải pháp cho sức khoẻ hơn là điều trị cho các hệ thống sản xuất chưa hoàn chỉnh. Để giảm thiểu sự phụ thuộc vào các giải pháp kháng sinh, cần phải có sự thay đổi trọng tâm từ các loại thuốc hoặc phương pháp điều trị khác để tối ưu hóa hệ thống sản xuất, từ đó không cần dùng đến liệu pháp dự phòng và metaphylactic. Điều này về lâu dài sẽ mang lại hiệu quả về mặt chi phí vì hệ thống sản xuất bền vững tạo ra vật nuôi khỏe mạnh và nền kinh tế phát triển. Mục đích giảm sử dụng kháng sinh nên được thực hiện lại nhằm tạo ra các hệ thống sản xuất bền vững. Chúng ta cần nhìn vào mục tiêu này như một thách thức chứ không phải là một mối đe dọa và phải đối mặt với thách thức với niềm đam mê và quyết tâm.
Chúng tôi có kiến thức và công cụ để tạo ra những hệ thống này và nhiều nhà sản xuất có thể chứng minh được năng suất và hiệu quả cao về chi phí trong các hệ thống sản xuất đã loại bỏ sử dụng kháng sinh dự phòng và metaphylactic. Tất cả chúng ta đều có thể phấn đấu đạt được sức khoẻ và năng suất cao hơn cũng như cung cấp sản phẩm ngày càng chất lượng mà người tiêu dùng yêu cầu. Đã đến lúc chúng ta dừng tìm kiếm các chất thay thế kháng sinh trước khi hành động. Thật không may, nhiều chuyên gia và các bên liên quan trong ngành đang thúc đẩy và thực hiện các giải pháp kháng sinh như các biện pháp để duy trì sức khoẻ động vật. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc giảm thuốc kháng sinh là hiệu quả. Do đó, phát ngôn viên, chuyên gia y tế, các cơ quan chính phủ, các trường đại học và các bên liên quan khác phải hỗ trợ cho sự phát triển lành mạnh của ngành chăn nuôi.
Làm việc nhóm, kiểm toán, động lực
Không có sự thiếu hiểu biết về việc làm thế nào để nuôi một con vật khỏe mạnh và duy trì một đàn khỏe mạnh. Thách thức đối với nhà sản xuất là xác định các yếu tố then chốt cần được giải quyết trước và tìm động lực để bắt đầu. Chìa khóa để thành công trong chương trình giảm lượng thuốc kháng sinh là tập hợp một nhóm bao gồm các bác sĩ thú y, chuyên gia dinh dưỡng, chuyên gia tư vấn (chính phủ, học viện hoặc ngành), các chuyên gia kỹ thuật xây dựng, chủ sở hữu, nhà quản lý và công nhân. Một cái nhìn mới với những quan điểm khác nhau có thể đánh giá những điểm yếu và điểm mạnh tiềm ẩn trong hệ thống sản xuất. Cần xác định thời gian hợp lý và nhiều mục tiêu cũng như mục đích để đạt được, và chương trình cần được điều chỉnh sao cho phù hợp với trang trại. Kiểm toán nhằm xác lập tình hình hiện tại và kiểm toán định kỳ để theo dõi tiến độ là rất quan trọng cho việc duy trì tốc độ, đánh giá lại tiến độ và các mục tiêu. Các hệ thống để so sánh sản xuất với các đối thủ và mục tiêu khách quan và xác định rõ ràng là then chốt để giữ động lực và tiến bộ.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các biện pháp điều trị bằng kháng sinh thông thường có thể gây hại cho sức khoẻ của bê. Ảnh: Mark Pasveer
Tối ưu hóa sức khoẻ và sản xuất
Để giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh, cần cải thiện sức khoẻ động vật và năng suất. Có rất nhiều nguồn lực và thông tin nhằm hỗ trợ nhà sản xuất cá nhân tối ưu hóa và duy trì mức độ sức khoẻ và phúc lợi cao trong các hệ thống sản xuất mà không cần thuốc chống vi trùng. Các chuyên gia y tế lợn châu Âu gần đây đã xếp các giải pháp thay thế cho thuốc chống vi khuẩn. Các cải tiến về an toàn sinh học, tăng cường sử dụng vắc xin, sử dụng kẽm / kim loại, cải thiện chất lượng thức ăn và các thử nghiệm chẩn đoán thông thường kết hợp với kế hoạch hành động rõ ràng được coi là những lựa chọn thay thế hứa hẹn nhất đối với thuốc kháng sinh trong chăn nuôi lợn công nghiệp dựa trên hiệu quả về đầu tư.
An toàn sinh học rất quan trọng để ngăn ngừa các sinh vật gây bệnh xâm nhập và lây lan vào trang trại. Mặc dù tầm quan trọng của an toàn sinh học ở ngành chăn nuôi gia cầm đã được chú trọng trong một thời gian dài nhưng vẫn chưa được thực hiện đầy đủ trong sản xuất bò sữa và bò. Đại học Ghent đã chỉ ra rằng mức độ an toàn sinh học cao hơn ở các trang trại lợn có liên quan đến mức sản xuất cao hơn, giảm sử dụng kháng khuẩn và kháng thuốc. Nhóm Đại học Ghent đã tạo ra một công cụ trực tuyến, theo đó các trang trại chăn nuôi gia cầm và lợn có thể đánh giá và so sánh độ an toàn sinh học và điều này cũng đang được phát triển ở sản xuất bò.
Chú ý đến nhu cầu sinh lý
Mức độ miễn dịch cả đàn, sức khoẻ ruột và miễn dịch cá thể, tình trạng dinh dưỡng, mức căng thẳng, và điều kiện môi trường tất cả đều tương tác với nhau. Một thách thức lớn là nuôi con giống khỏe mạnh trong các hệ thống sản xuất nhân tạo có mật độ động vật cao. Không những cần phải chú trọng đến sự phát triển sinh lý của các vật nuôi mà còn cố gắng làm cho chúng thích nghi với hệ thống của chúng ta.
Một hệ ruột khỏe mạnh với thành phần vi khuẩn cân bằng là điều cốt lõi để tối ưu hóa việc tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng. Công cụ quan trọng nhất cho sức khoẻ đường ruột là cung cấp thức ăn tốt nhất nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho từng độ tuổi và giai đoạn sản xuất. Hệ thống cho ăn đa giai đoạn và cho ăn chính xác là những công cụ có giá trị không chỉ cho năng suất mà còn cho sức khoẻ. Thức ăn phải phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau. Thời gian cai sữa cũng như hệ thống cai sữa ở heo con và bê sữa cần cho phép vật nuôi chuyển từ sữa sang chế độ ăn ngũ cốc. Các chế phẩm bổ sung như axit hữu cơ, prebiotic, probiotic, và enzyme cũng là những nguồn giá trị trong các hệ thống sản xuất không có kháng sinh.
Vận chuyển và buôn bán động vật sống là một hình thức gây áp lực sinh lý cao đối với động vật và tạo ra nguy cơ lây bệnh rộng, điều này tạo ra nhu cầu sử dụng thuốc chống vi trùng để bảo vệ động vật khỏi bệnh tật. Các hệ thống sản xuất hiện nay đã cho phép vận chuyển động vật sống và buôn bán gây tổn hại cho động vật. Vận chuyển động vật con thường bao gồm thuốc kháng sinh dự phòng. Các hệ thống sản xuất này cần phải có biện pháp để giảm thiểu tất cả các vận chuyển không cần thiết đối với động vật trong quá trình nuôi. Tuy nhiên, cần tập trung nhiều hơn vào những điểm mạnh trong các hệ thống sản xuất tách biệt nhằm giảm thiểu căng thẳng và lây lan bệnh thông qua buôn bán động vật và giảm thiểu thời gian vận chuyển.
Giảm việc sử dụng kháng sinh là cơ hội để cải thiện sức khoẻ động vật và năng suất. Ảnh: Bart Nijs
Mật độ nuôi thả, điều kiện vệ sinh nơi ở, chất liệu ổ rơm, nhiệt độ, độ ẩm và chất lượng không khí chỉ là một vài điều kiện môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ và phúc lợi. Nhiệt độ môi trường lý tưởng hoàn toàn phù hợp với độ tuổi và trọng lượng của động vật. Chất lượng không khí tốt và thông gió là điều cần thiết để duy trì khỏe mạnh của động vật. Môi trường ấm, ẩm ướt cũng là một môi trường hoàn hảo cho vi khuẩn gây bệnh phát triển và lan truyền. Tình trạng đông đúc rất phổ biến và điều này ảnh hưởng đến nhiệt độ môi trường và vệ sinh, dẫn đến giảm hiệu quả vệ sinh và khử trùng giữa các lứa động vật. Tình trạng đông đúc cũng gây stress đối với động vật do không có đủ thức ăn và chỗ ở. Phúc lợi động vật có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất và sức khoẻ. Mặc dù hầu hết chúng ta đều biết về những căng thẳng này đối với động vật, nhưng các trang trại lại không đưa ra các biện pháp quản lý mà chỉ cho động vật sử dụng kháng sinh để giảm bệnh và hiệu suất kém.
Tính miễn dịch hệ thống tốt là rất quan trọng
Vắc xin được chứng minh là rất có hiệu quả trong việc ngăn ngừa sự khởi phát và lây lan của các bệnh truyền nhiễm và do đó có tiềm năng lớn để giảm tỷ lệ mắc bệnh AMR. Ủy ban châu Âu tuyên bố trong Kế hoạch Hoạt động Y tế rằng các vắc-xin nên được đẩy mạnh hơn nữa để giảm sử dụng thuốc kháng sinh trong các lĩnh vực đó. Tuy nhiên, các biện pháp tăng cường miễn dịch không chỉ giới hạn trong tiêm chủng mà còn bao gồm nhiều yếu tố khác như lựa chọn di truyền, động vật không có mầm bệnh, dinh dưỡng, phòng chống độc tố mycotoxin, giảm stress, mật độ nuôi và các yếu tố môi trường. An toàn sinh học và tăng cường sử dụng vắc xin được coi là những lựa chọn thay thế tiềm năng nhất cho thuốc kháng sinh trong sản xuất lợn công nghiệp dựa trên tính hiệu quả, tính khả thi và lợi nhuận của các chuyên gia y tế châu Âu.
Các sáng kiến về công nghiệp để hỗ trợ trang trại trong việc xây dựng một chương trình giảm thiểu và phòng ngừa bệnh tốt là một nguồn lực lớn cho nông dân, vì miễn dịch và tiêm chủng là những khái niệm phức tạp. MSD Animal Health vừa mới đưa ra 'Thời gian để Chủng Ngừa', một chương trình mới được thiết kế để giúp nông dân đánh giá cao hơn những lợi ích của việc chủng ngừa gia súc của họ. Tiêm phòng, như một phần của chương trình phòng ngừa toàn diện, có thể đóng góp rất nhiều vào việc giảm mức độ nghiêm trọng và tần suất các bệnh truyền nhiễm, bao gồm cả nhu cầu kháng sinh để điều trị nhiễm trùng. Vì vậy, tăng tỷ lệ tiêm chủng giúp chống lại các tác nhân gây bệnh đặc hiệu, cho phép cải thiện năng suất, cải thiện sức khoẻ và phúc lợi.
Duy trì sức khoẻ tốt, không dùng kháng sinh
Giữa năm 2009 và 2014 việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi của người Hà Lan đã giảm 58%. Điều này dường như không ảnh hưởng đến lợi nhuận nông nghiệp: ngành chăn nuôi không giảm về quy mô và hiệu quả kinh tế cũng như kỹ thuật trung bình dường như không trở nên tồi tệ hơn. Kể từ khi Bỉ bắt đầu sáng kiến giảm sử dụng và chống vi khuẩn vào năm 2011 thông qua việc thành lập AMCRA (Trung tâm chuyên môn về tiêu thụ và kháng kháng sinh ở động vật) thì nhìn chung sử dụng kháng sinh đã giảm 20%. Giáo sư Jeroen Dewulf, thành viên hội đồng sáng lập của AMCRA phát biểu: "Tôi chưa nhận được bất kỳ thông tin nào về giảm năng suất ở lĩnh vực này. Ngược lại, năng suất vẫn tiếp tục tăng như trong 20 năm qua. Tôi không có thông tin phản hồi về tác động tiêu cực do việc giảm sử dụng kháng sinh đối với năng suất hoặc phúc lợi động vật ".
Gần đây, một nghiên cứu ở Châu Âu qua bốn quốc gia (Bỉ, Pháp, Đức và Thụy Điển) đã đánh giá tác động về kỹ thuật và kinh tế của các biện pháp can thiệp đặc biệt trong 70 trại lợn giai đoạn đẻ nhằm giảm việc sử dụng kháng sinh trong sản xuất khi thực hiện các biện pháp thay thế .
Giảm trung bình 47% các biện pháp điều trị kháng sinh tương ứng với mức giảm trung bình 31% chi phí kháng sinh. Sự thay đổi trung bình về lợi nhuận thực các trang trại ở Bỉ và Pháp được ước tính là 4,5 hoặc 1,2 euro mỗi lợn nái / năm khi sử dụng các mô hình xác định và ngẫu nhiên. Khả năng sinh lợi được cải thiện chủ yếu nhờ sự thay đổi trong tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và tăng trọng hàng ngày thay vì thay đổi chi phí về kháng sinh. Điều này rõ ràng cho thấy việc giảm thuốc kháng sinh có thể mang lại hiệu quả chi phí.
Trong sản xuất sữa, phương pháp điều trị viêm vú sử dụng hầu hết các kháng sinh trong trang trại bò sữa. Liệu pháp trị liệu bằng kháng sinh hoạt tính (DCT) là phương pháp điều trị dự phòng thường được sử dụng nhất trong các nhà máy sữa. Liệu pháp trị liệu toàn diện (BDCT), tức là điều trị cho tất cả bò cái trước khi sinh, cũng được sử dụng ở nhiều trang trại bò sữa. Tiêm một con bò không có dấu hiệu viêm vú cận lâm sàng hoặc tiền sử viêm vú bằng kháng sinh không phải là cách sử dụng kháng sinh khôn ngoan mà thậm chí có thể dẫn đến viêm vú. Nên dùng chất bôi quanh núm vú kết hợp với liệu pháp trị liệu bằng kháng sinh hoạt tính (SDCT) dựa trên chẩn đoán và tiền sử viêm vú. SDCT sử dụng trong trang trại sản xuất sữa được chứng minh là thành công trong việc giảm viêm vú như BDCT. Phòng ngừa viêm vú có hiệu quả về mặt chi phí hơn là điều trị các trường hợp lâm sàng và giảm sử dụng kháng sinh, tuy nhiên phân tích chi phí và lợi ích của các DCT thì khác nhau giữa các nghiên cứu do các yếu tố khác nhau. Một khu vực sử dụng kháng sinh quá cao ở nhiều trang trại bò sữa là trại bê. Ở những con bê trước khi cai sữa, người ta bổ sung kháng sinh vào sữa / sữa thay thế và các phương pháp điều trị tiêu chảy bằng kháng sinh gây hại cho sức khoẻ của bò sữa, tăng trọng hàng ngày và không có hiệu quả về chi phí. Nghiên cứu chỉ ra rằng nếu các thuốc chống vi khuẩn chỉ được sử dụng cho các trường hợp bị tiêu chảy với sốt, biếng ăn, hoặc trầm cảm và không sử dụng kháng sinh trong sữa thì chúng ta tiết kiệm được 10 đô la cho mỗi con bê.
Do đó đã có bằng chứng rõ ràng rằng việc giảm thuốc kháng sinh mang lại hiệu quả về chi phí và nhìn chung không dẫn tới nhiều bệnh tật hơn và giảm năng suất. Đối với mỗi nông trại, có thể có những thách thức tạm thời và duy nhất để giải quyết trong quá trình loại bỏ tất cả các loại thuốc kháng sinh không cần thiết. Đừng để những hậu quả tạm thời hoặc những trở ngại nhỏ cản trở sứ mạng bảo vệ kháng sinh trong tương lai của ngành công nghiệp. Sử dụng kiến thức và lời khuyên của chính phủ, , bác sĩ khoa học, công nghiệp / thú y của bạn để bắt đầu và tiếp tục hướng tới mục tiêu tối ưu hóa sức khoẻ sản xuất.
Tài liệu tham khảo có sẵn theo yêu cầu
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ