Giống Lúa Chất Lượng TL-6
TL-6 được Trung tâm Lúa lai tạo và chọn lọc, đã đưa khảo nghiệm so sánh từ vụ mùa 2006 ở Thái Bình trong mạng lưới khảo nghiệm hẹp. Đánh giá qua 3 vụ khảo nghiệm đây là giống chất lượng, năng suất cao và chống chịu tốt nhất cả ở 2 vụ xuân và mùa. Thời gian sinh trưởng, TL-6 là giống lúa cảm ôn, ngắn ngày, từ gieo đến trỗ tương đương Q5. Vụ xuân 130-135 ngày, vụ mùa 105-110 ngày. Dạng cây đứng, khả năng đẻ nhánh trung bình, đẻ nhánh gọn, cứng và sóng cây, chiều cao trung bình trên dưới 100cm, cao hơn BT-7. Dễ phân biệt được với BT-7 và giống hạt nâu khác trong cùng điều kiện canh tác.
TL-6 có dạng bông to trung bình, hạt xếp dầy hơn HT-1 và BT-7, dạng hạt thon dài, hạt màu nâu nhạt, có râu ở hạt đầu bông, khối lượng 1.000 hạt đạt 24-26 gr; trung bình số hạt/bông 135-150 hạt, tỷ lệ hạt chắc đạt trên 90%.
Khả năng chống chịu: TL-6 chịu rét khá tốt. Vụ xuân 2008, giai đoạn mạ sau gieo và trước 3 lá được đánh giá điểm chịu rét là 1-3, so với BT-7 là 5 và HT-1 là 3-5 (điểm 1 là chịu rét tốt). TL-6 chưa thấy đạo ôn gây hại trên lá (điểm 1-3), rầy nâu rất nhẹ và không có thiệt hại đồng ruộng. Bạc lá nhẹ và đặc biệt ở vụ mùa TL-6 có điểm bạc lá đồng ruộng sau 2 vụ đánh giá là 3, so với BT-7 thì năng suất cao hơn và gieo cấy tốt hơn cho cả vụ mùa. Nhược điểm của TL-6 là dễ nhiễm đốm nâu trên lá giai đoạn đứng cái, đẻ nhánh trung bình.
Về chất lượng cơm gạo: Theo các số liệu phân tích về chất lượng gạo thì đây là giống có hàm lượng Amiloze thấp 18-20, cơm mềm, dẻo và có mùi thơm, thơm hơn HT-1, nhưng không thơm bằng BT-7, cơm không nhã rất hợp với thị hiếu hiện nay, tỷ lệ bạc bụng thấp, gạo trắng trong không có chấm xám như HT-1. Gạo đẹp hơn HT-1 nhưng mã gạo không đẹp bằng BT-7.
Năng suất thực thu của TL-6 vụ xuân qua các vụ đánh giá ở Thái Bình đều rất cao: 65-68 tạ/ha, vụ mùa đạt 60-62 tạ/ha, so BT-7 chỉ đạt dưới 50 tạ/ha.
Vụ xuân 2008, giống TL-6 được trình diễn rộng với quy mô 0,5-2 ha/điểm tại các địa phương ở Thái Bình như: Thị trấn Thanh Nê-Kiến Xương, HTX An Ấp-Quỳnh Phụ, Vũ Lăng –Tiền Hải, Thuỵ Bình- Thái Thuỵ, Vũ Lạc-TP Thái Bình, Đông Động-Đông Hưng, và rất nhiều điểm nhỏ phân bố rải rác trong cả tỉnh. Mặc dù trong điều kiện rét đậm, rét hại nhưng TL-6 được đánh giá là giống có khả năng chịu rét tốt hơn các giống lúa chất lượng khác, các điểm đều không bị vỡ mô hình do thiếu mạ và chết rét trên mạ.
Trên đất chua nội đồng tại An Ấp-Quỳnh Phụ, theo đánh giá của cán bộ địa phương, giống TL-6 cho năng suất khá cao, 230-240kg/sào (67-68 tạ/ha), nông dân tiếp tục chọn và đổi để gieo cấy ở vụ mùa năm nay. Tại mô hình rộng ở Thanh Nê-Kiến Xương, theo đánh giá có những hộ đạt năng suất 250-260kg/sào ở chân ruộng trổ bông phơi màu vào 15-20 tháng 5 dương lịch, dàn lúa cao hơn hẳn một bậc, bông to, trùng bông và tỷ lệ chắc hạt cao. HTX dịch vụ NN Thanh Nê tiếp tục chỉ đạo và hướng dẫn nông dân chọn lọc và chuyển giống cho nhau gieo cấy vụ mùa 2008.
Như vây TL-6 là giống lúa chất lượng nhưng cho năng suất khá thuyết phục, nếu được chọn lọc và sản xuất giống bài bản giống sẽ phát huy tác dụng nhanh ngoài sản xuất.
Đề nghị Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm cần khẩn trương hoàn thiện các thủ tục xin công nhận sản xuất thử và tiến tới công nhận chính thức để giống TL-6 nhanh chóng trở thành giống thương mại, góp phần đáp ứng nhu cầu các giống chất lượng của bà con nông dân.
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ