Sinh viên/Thực tập Kỹ Thuật Nuôi Lươn

Kỹ Thuật Nuôi Lươn

Ngày đăng 27/01/2011

Kỹ Thuật Nuôi Lươn

Lươn là động vật máu lạnh, nhiệt độ cơ thể biến đổi theo nhiệt độ của môi trường nước xung quanh. Nhiệt độ môi trường sống từ 15 - 30 độ C, thích hợp nhất 24 - 28 độ C. Dưới 10 độ C chúng rúc tận đáy bùn, sống dựa vào nguồn thức ăn tích trữ trong cơ thể, trên 32 độ C sức ăn giảm đi.

Cấu tạo của lươn dễ cho việc trốn lủi, nhất là lúc đói. Ngày có mưa sấm, lươn bỏ đi hàng loạt, ngoi theo lạch nước chảy, nếu xung quanh có đất cứng có thể dùng đuôi cựa để lách đi.

Nếu trong ao có hang hốc, có dòng nước chảy thì toàn bộ lươn nuôi bỏ đi. Đây là nguyên nhân thất bại trọng yếu nhất của việc nuôi lươn. Vì vậy khi nuôi phải đặc biệt chú trọng đến đề phòng lươn bỏ đi. Ngoài ra việc chuẩn bị thức ăn cũng rất quan trọng, cần căn cứ vào lượng thức ăn để quyết định lượng lươn nuôi.

I. LƯƠN GIỐNG

 Đây là vấn đề đầu tiên được giải quyết khi nuôi lươn. Lươn giống thu được từ các nguồn sau:

- Bắt trực tiếp từ lươn sẵn có trong tự nhiên: Hàng năm từ tháng 4 - 10 có thể dùng lồng bẫy để bắt lươn ở ruộng lúa, ở các mương rãnh... lươn bắt được theo cách này thương không bị thương, khoẻ mạnh tỷ lệ sống cao.

- Mua lươn ở chợ: Cần chọn con khoẻ mạnh, không bị thương, lươn giống câu bằng lưỡi câu sẽ bị thương dễ sinh bệnh nấm thuỷ mi, có con bị đau không ăn được nên gầy yếu, không thể dùng làm lươn giống được.

Có thể phân lươn giống làm 3 loại:

- Loại 1: Thân mầu vàng có chấm lớn, loại này lớn rất nhanh.

- Loại 2: Thân màu vàng xanh, loại này sinh trưởng trung bình.

- Loại 3: Mầu xám tro, chậm lớn.

Kích thước lươn giống tốt nhất là cỡ 30-50 con/1kg, nếu lươn quá nhỏ tỷ lệ sống sẽ thấp, cỡ quá lớn thì hiệu quả kinh tế thấp.

- Chọn lươn nuôi cho đẻ:

Vào cuối năm, trong số lươn thu hoạch được chọn những con nặng từ 100-200g, thân màu vàng trơn bóng, nuôi qua mùa đông trong ao giầu dinh dưỡng tới mùa xuân cho sinh đẻ nếu nước trong ao trên 15 độ C.

Trong thời kỳ sinh sản phải đặc biệt chú ý đến trứng lươn đẻ và lươn con để vớt ra kịp thời nuôi ở các ao đề phòng chúng ăn lẫn nhau.

Bón phân ở ao để gây nuôi thức ăn động vật phù du, khi thiếu thức ăn phải cho thêm lòng đỏ trứng gà luộc chín cho lươn ăn. Nếu lươn dài cỡ 3-5cm, có thể cho ăn giun, cá tạp băm nhỏ.

Nếu trứng lươn thu ở ngoài thiên nhiên (như ở các bờ ruộng lúa, sau lúc mưa rào)thì chú ý cách nhận biết trứng lươn như sau: trước khi lươn đẻ trứng, lươn cái thường phun bọt rồi đẻ trứng vào đó, nếu thấy những đám bọt này có thể vớt trứng về ấp trong khay.

II. PHƯƠNG PHÁP NUÔI LƯƠN

2.1 Điều kiện và yêu cầu cơ bản:

Khi nuôi lươn cần chọn nguồn nước đầy đủ, không ô nhiễm, nơi dễ thay tháo nước, nơi nước chảy quanh năm càng tốt.

Diện tích nuôi to nhỏ tuỳ ý, từ 3-5 m2 tới hàng chục, hàng trăm m2. Đất hoang trước hay sau nhà, khe nước đều có thể làm nơi nuôi lươn.

2.2 Cách làm ao nuôi lươn:

Gia đình nuôi lươn nên xây ao ở gần nhà, thoáng gió, hướng về phía mặt trời, nguồn nước thuận tiện, dễ trông coi.

Diện tích ao nuôi to nhỏ tuỳ ý, hình dạng ao có thể hài hoà với cảnh quan.

Ao nuôi tốt nhất là xây gạch. Thành ao nên nghiêng về phía lòng ao để đề phòng lươn móc đuôi lên thành trốn thoát. Ở mặt bên cách đáy ao 0,5m nên có cửa tháo nước ra, có tấm chắn che lại.

Ao nuôi sâu từ 1 -1,5m, đáy ao phủ một lớp đất màu có nhiều bùn dầy khoảng 20 cm. Trong ao thả những hòn đá, mảnh ngói, cành cây tương đối lớn tạo thành những hang hốc. Trong môi trường như vậy, lươn rất ít khi đào lỗ trên nền ao mà thường ẩn nấp trong những hốc do người tạo nên. Vào mùa đông khi lật mở những vật che phủ có thể thấy rất nhiều lươn chui rúc cùng một chỗ rất dễ bắt.

Sau khi đổ lớp bùn đáy, có thể tháo nước vào, mức nước sâu khoảng 10cm. Trong nước có thể tạo các thực vật thuỷ sinh (như cây niễng) để cải thiện môi trường. Mùa hè có thể che bớt nắng, giữ nhiệt độ đáy nước. Ở các ao rộng có thể thả các đám cỏ, lươn rất thích rúc vào bên trong, đồng thời các búi cỏ nát có thể tạo ra một lượng lớn động vật phù du cung cấp thức ăn cho lươn

Trước khi thả giống 7-10 ngày, dùng 0,2kg vôi/1m2 để khử trùng, diệt mầm bệnh.

2.3 Chuẩn bị con giống:

Lươn con phải không có bệnh, không bị thương, lưng mầu vàng sẫm, có những chấm đen, mỗi con nặng từ 20 đến 30g. Loại lươn này sinh trưởng nhanh. Kích thước lươn nuôi trong ao phải đồng đều để tránh ăn thịt lẫn nhau. Trung bình 1m2 thả 50-60 con có độ dài 10-15cm.

Trước khi thả, cần tắm lươn giống trong dung dịch CuSO4 nồng độ 1 phần triệu, nhiệt độ của dung dịch là 24-26 độ C, ngâm trong 25-30 phút, hay dùng nước muối nồng độ 4% tắm trong vòng 4-5 phút để phòng nấm thuỷ mi rất có hiệu quả, đồng thời có thể diệt trừ ký sinh trùng lên lươn giống.

Khi tắm nếu nhiệt độ nước thấp nên để thời gian dài hơn một chút, nếu nhiệt độ nước cao thì rút ngắn thời gian đi. Do thể chất các loại lươn giống khác nhau, sức chịu đựng các loại thuốc cũng khác nhau, vì vậy trong quá trình ngâm rửa phải quan sát phản ứng của lươn giống, phát hiện mức độ phản ứng mạnh trong thời gian tương đối dài hoặc lươn nổi lên là dấu hiệu không bình thường thì phải vớt lươn ra ngay. Lươn giống sau khi khử trùng phải đem thả ngay, nếu không thả ngay thì phải dùng nước sạch rửa 1-2 lần.

2.4 Thức ăn nuôi lươn:

Nên áp dụng phương pháp thích ứng với từng địa phương. Nếu ở khe nước, lạch nước, có thể bắt giun, côn trùng sẵn có, ở vùng núi đồi có thể bắt giun. Nơi nuôi tằm có thể cho lươn ăn nhộng tằm. Vùng có hồ có thể cho ăn cá con. Ở gần nhà máy chế biến thực phẩm có thể mua nội tạng động vật vứt bỏ làm thức ăn. Khi thiếu thức ăn có thể cho lươn ăn những thức ăn như cơm, mì sợi…, nhưng như vậy tốc độ sinh trưởng của lươn sẽ chậm. Cần chú ý không cho lươn ăn những thức ăn mục nát đã biến chất vì lươn dễ mắc bệnh hoặc chết.

2.4 Quản lý nuôi dưỡng:

Mùa sinh trưởng của lươn thông thường từ tháng 4-10. Thời gian kiếm mồi và lớn nhanh từ tháng 5-9. Trong quá trình nuôi lươn cần chú ý những điểm sau:

2.5. Thả mồi phải định kỳ, định lượng:

Thức ăn cho ăn hàng ngày phải bằng 5-7% thể trọng lươn. Thức ăn quá nhiều, lươn tham ăn sẽ bị chết, nếu quá ít sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng.

Căn cứ vào đặc điểm ăn đêm của lươn, thời gian cho ăn thường là từ 6-7h tối, mỗi ngày vớt thức ăn thừa một lần để tránh thức ăn rữa nát làm ô nhiễm nước.

Ở giai đoạn lươn giống cần làm tốt việc thuần hoá thức ăn. Mấy ngày đầu mới thả có thể không cho lươn ăn, sau cho cho ăn giun và các thức ăn khác. Hình thành tập tính ăn thức ăn hỗn hợp cho lươn giống. Nếu cho ăn một loại mồi trong một thời gian dài thì về sau tính ăn của lươn rất khó cải biến, không có lợi cho việc nuôi.

+ Giữ nước trong sạch:

Vào mùa nóng nên tăng số lần thay nước, kịp thời vớt hết thức ăn thừa. Ngoài ra, trồng thực vật thuỷ sinh trong ao có tác dụng hạ được nhiệt độ của nước, làm sạch nước. Sau khi mưa phải tháo nước kịp thời đề phòng lươn bỏ trốn. Mùa hè có thể dùng lều che nắng có lợi cho sinh trưởng của lươn.

+ Phân ao:

Trước khi lươn sinh sản có thể thả vào ao một ít cây cải dầu, dây khoai, rơm khô để lươn đẻ trứng. Lươn con mới nở vớt ra ngay thả vào ao ương tránh lươn mẹ ăn lươn con. Ao nuôi lươn con chủ yếu dựa vào màu nước sinh ra động vật phù du làm mồi cho lươn.

III. THU HOẠCH

Thời gian đánh bắt lươn vào khoảng tháng 10-11. Khi nhiệt độ hạ xuống 10-15 độ C lươn bắt đầu dừng ăn và ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ thấp, lươn ít hoạt động nên khi bắt ít bị thương và dễ cho việc vận chuyển. Phương pháp bắt có thể là câu, đánh lưới hoặc tát cạn ao.

+ Ngủ đông của lươn:

Cuối mùa thu, đầu mùa đông, lươn ngừng ăn rúc vào bùn ngủ đông. Đối với việc để giống lươn con qua đông, cần phải tháo cạn nước ao nhưng phải giữ cho lớp bùn luôn ẩm ướt. Nếu nhiệt độ xuống quá thấp, cần phủ một lớp cỏ lên mặt ao để giữ ấm chống lạnh. Có một số nơi có thể để nước qua mùa đông, nhưng phải để mực nước sâu một chút để tránh kết băng làm lươn chết cóng.


Nuôi Lươn Hiệu Quả Cao Nuôi Lươn Hiệu Quả Cao