Tôm thẻ chân trắng Phơi khô đáy ao, rải vôi - Quá trình khử trùng trong các ao nuôi tôm bán thâm canh

Phơi khô đáy ao, rải vôi - Quá trình khử trùng trong các ao nuôi tôm bán thâm canh

Ngày đăng 30/09/2015

Phơi khô đáy ao, rải vôi - Quá trình khử trùng trong các ao nuôi tôm bán thâm canh

Vì hầu hết đất trở nên quá khô cho quá trình vi khuẩn phân hủy các chất hữu cơ trong vòng ba tuần, nên ít cần nhiều thời gian như thế để làm khô đáy ao.

Đáy ao có cặn lắng sâu nên hút bỏ để tạo điều kiện phơi khô ao. Ao có pH đất dưới 7,5 nên được rải vôi để tăng cường sự phân hủy.

Tiến sĩ Li Li, Trường Thủy sản và Khoa học Đời sống, Đại học Hải Dương Thượng Hải, Thượng Hải, Trung Quốc

Julio F. Queiroz, Thư viện Môi trường Embrapa, São Paulo, Brazil

Tiến sĩ Claude E. Boyd, Trường Thủy sản, Nuôi trồng Thủy sản và Khoa học Thủy sản, Đại học Auburn, Alabama 36849, Hoa Kỳ

 

Trái: Việc tháo nước sau thu hoạch để lại ao ướt. Phải: Phơi khô và rải vôi đáy ao giúp trung hòa độ chua của đất và tiêu diệt các sinh vật không mong muốn.

Ở châu Mỹ, nhiều nhà sản xuất tôm sử dụng các ao lớn và quản lý theo cách nuôi bán thâm canh. Các nhà sản xuất đã áp dụng các bước thực hành chính trong quản lý đáy ao nuôi là phơi khô ao và bón vôi giữa các vụ.

Có ba lý do cơ bản thực hiện các bước thực hành này: thúc đẩy phân hủy chất hữu cơ, trung hòa độ chua của đất và tiêu diệt các sinh vật không mong muốn kể cả tác nhân gây bệnh.

Độ ẩm đất ao, quá trình hô hấp

Ngay sau khi tháo nước ao, các lỗ rỗng ở đất đáy có đầy nước thường cạn kiệt oxy hòa tan, nhưng ở đáy ao khô, các lỗ rỗng và các vết nứt rạn trong đất có không khí chứa oxy khoảng 250 ppm.

Thông khí ở đất là kết quả của quá trình phơi khô làm tăng oxy sẵn có cho quá trình oxy hóa các chất hữu cơ bởi vi khuẩn hiếu khí và quá trình oxy hóa hóa học của các chất khử như sắt (II), mangan (II), nitrit và sulfide có trong đất vào cuối giai đoạn nuôi tăng trưởng.

Mối quan hệ giữa độ ẩm của đất và tốc độ hô hấp (phân hủy chất hữu cơ) ở 3 loại đất đáy được minh họa trong Hình 1. Quá trình hô hấp thấp cho đến khi độ ẩm của đất xuống dưới 30% và tốc độ hô hấp cao nhất ở trong khoảng độ ẩm từ 10 đến 20%. Tốc độ hô hấp giảm nhanh khi độ ẩm của đất xuống dưới 10%, bởi vì không có đủ độ ẩm cho hoạt động tối ưu của vi sinh vật.

Động vật thủy sinh lớn hơn có thể tồn tại ở các vũng nước nhỏ và chết khi các vũng nước trong đáy ao khô đi. Sinh vật phù du và vi sinh vật đất cũng chết vì khô hạn khi đất trở nên quá khô nên không có nước sẵn có cho quá trình sinh học.

Tất nhiên, một số loài vi sinh vật hình thành bào tử hoặc bào xác tồn tại khi khô hạn trong thời gian kéo dài, ngoài ra việc phơi khô ao chắc chắn làm giảm sự phong phú của vi sinh vật trong đất.

Trong một nghiên cứu thí nghiệm, cặn bùn lắng từ một ao mới tháo nước gần đây (đất A Hình 1) được duy trì ở độ ẩm tối ưu là 18% bằng cách thêm nước định kỳ.

Tốc độ hô hấp giảm đều đều khi sử dụng hết các chất hữu cơ dễ phân hủy (Hình 2). Tốc độ hô hấp sau 30 ngày chỉ bằng khoảng 20% so với mức ban đầu, và gần 80% tổng lượng khí carbon dioxide giải phóng nhờ quá trình hô hấp xảy ra trong vòng 20 ngày.

Điều này cho thấy chất hữu cơ có thể oxy hóa được dễ dàng thì một phần của chất hữu cơ đó có thể là vấn đề trong vụ tới – bị phân hủy rất nhanh.

Hơn nữa, hầu hết đất trở nên quá khô cho vi khuẩn phân hủy đáng kể các chất hữu cơ trong vòng hai đến ba tuần trong thời tiết khô. Cho nên không cần hơn 3 tuần để phơi khô đáy ao.

Đất ao phơi khô, cày xới

Đất đầu tiên khô trên bề mặt làm cản trở quá trình bốc hơi thêm và quá trình oxy hóa. Đất nứt vỡ thành các tảng hình trụ, tạo điều kiện phơi khô và thông khí, nhưng bề mặt tảng khô làm cản trở quá trình bốc hơi và quá trình oxy hóa. Đất khử hóa học sẫm màu – thường màu đen vì có sắt (II).

Bằng cách xới bề mặt đất hoặc phá vỡ đất cục, người ta có thể quan sát màu của đất và xác định đất đã được oxy hóa hay chưa.

Có thể xới đất để phá vỡ bề mặt và đập vụn đất cục sẽ giúp nhanh khô và thoáng khí. Có lẽ tốt nhất là dùng bừa đĩa để cày xới đáy ao.

Thông thường đủ để cày tới độ sâu từ 10 đến 15 cm, cách hiệu quả nhất cày đáy ao 2 lần theo hướng ngược nhau. Tất nhiên, việc cày xới tốt cho đất sét nặng hơn là bùn hoặc đất cát.

Nếu bùn cặn lắng tích tụ quá mức ở đáy ao, đất sẽ không khô hoàn toàn và không thể cày xới vì bùn đáy ướt sẽ không chịu được sức nặng của máy cày.

Ngoài ra, đất có thể quá ẩm và không thể tán vụn được. Ao có cặn lắng bùn sâu hơn từ 10 đến 15 cm thường được khuyến khích để loại bỏ bùn khỏi đáy ao nhằm tạo điều kiện phơi ao.

pH đất, rải vôi

pH của đất ao có tác động rõ rệt đến quá trình vi khuẩn phân hủy các chất hữu cơ như minh họa trong Hình 3. Ao có pH đất dưới 7,5 nên được rải vôi để tăng cường tốc độ phân hủy.

Có thể bón vôi bằng cách rải hoặc vôi nông nghiệp (đá vôi nghiền thành bột mịn) hoặc vôi (đá vôi được nung trong lò để lấy đi carbon dioxide CO2).

Có loại là vôi sống / nung bao gồm các oxit canxi và magiê hoặc như vôi tôi được làm ra bằng cách xử lý vôi sống với nước để chuyển đổi oxit để hydroxit. Về tính năng trung hòa axit, vôi sống và vôi tôi mạnh hơn khoảng 1,8 và 1,4 lần so với vôi nông nghiệp.

Mức bón vôi điển hình tùy vào việc sử dụng các loại vôi chất lượng cao ở loại đất có khoảng 30% đất sét như trong Bảng 1.

Giảm bón vôi đối với đất có kết cấu thô hoặc tăng lên đối với đất mịn hơn ở mức khoảng 200 kg / ha / tỷ lệ phần trăm đất sét.

Tuy nhiên, các nhà quản lý ao hiếm khi biết được hàm lượng đất sét của đất đáy và cách làm tốt nhất có lẽ là sử dụng các số liệu thể hiện trong Bảng 1 bất kể kết cấu đất.

 

Hình 1. Độ ẩm đất tác động đến quá trình hô hấp đất ở ba loại đất có hàm lượng cacbon hữu cơ khác nhau.

 

Hình 2. Sự hô hấp ở một mẫu đất lấy từ ao vừa mới tháo nước được duy trì ở độ ẩm đất tối ưu cho quá trình hô hấp.

 

Hình 3. Các tác động của pH lên quá trình hô hấp đất.

 

Đất nứt vỡ thành các tảng hình trụ. Bằng cách phá vỡ các tảng đất, người ta có thể quan sát màu đất và xác định xem đất đã được oxy hóa hay chưa.

Bảng 1. Tỉ lệ bón vôi cho đáy ao nuôi điển hình có khoảng 30% đất sét.

 

Tỉ lệ bón vôi (kg/ha)

pH đất

 

Vôi

nông nghiệp

Vôi tôi

Vôi sống

4,5 hoặc thấp hơn

4,6-5,0

5,1-5,5

5,6-6,0

6,1-6,5

6,6-7,5

Trên 7,5

6.000

5.000

4.000

3.000

2.000

1.000

0

4.500

3.700

3.000

2.200

1.500

750

0

3.400

2.800

2.200

1.700

1.100

600

0

 Tags: con tom, nuoi tom, thuy san, nuoi trong thuy san, ao nuoi tom, che pham sinh hoc, khu trung ao nuoi tom


Có thể bạn quan tâm

Có phải quy trình thực hành nuôi tôm hiện nay tạo điều kiện thuận lợi cho EMS? Có phải quy trình thực hành nuôi tôm… Sử dụng chế phẩm vi sinh hiệu quả Sử dụng chế phẩm vi sinh hiệu quả