Phòng chống bệnh viêm phổi dính sườn (App)
Viêm phổi màng phổi cấp tính ở lợn: ba quan sát (chỉ ra bằng mũi tên) có thể thường xuyên thực hiện: vùng từ màu đỏ sẫm đến đen, phù gian tiểu thùy và viêm màng phổi thùy. Hình ảnh của Tiến sĩ Robert Desrosiers.
Bài viết này giải thích các biện pháp phòng ngừa App, tập trung vào việc sử dụng kháng sinh và vacxin.
Một khi bệnh lâm sàng của viêm phổi màng phổi được xác nhận qua kiểm tra trong phòng thí nghiệm thì cần phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa.
Kháng sinh: Nếu xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng có thể dự đoán, nên thiết lập điều trị kháng sinh trước thời kỳ có nguy cơ cao. Việc tăng cường các hạn chế chính trị đối với sử dụng kháng sinh nhằm giảm sức đề kháng kháng sinh trong thú y làm cho thực hành này khó /không thể ở một số nước châu Âu. Tuy nhiên, viêm phổi màng phổi lợn vẫn thường được phòng ngừa ở châu Âu cũng như hầu hết các nước Mỹ và châu Á khác. Hiện không có đề xuất rõ ràng về những loại thuốc kháng sinh cụ thể: điều quan trọng là cô lập App và thực hiện một kháng sinh đồ để lựa chọn đúng kháng sinh. Việc sử dụng nhiều kháng sinh diệt khuẩn rất mạnh có thể ngăn chặn sự phát triển của hệ miễn dịch ở động vật được điều trị: sau khi dừng điều trị kháng sinh thì các triệu chứng lâm sàng sẽ trở lại (vi khuẩn vẫn ẩn trong amiđan). Câu hỏi tiếp theo là: thời gian điều trị bao lâu? Thông thường, điều trị nên được duy trì trong 2-3 tuần, nhưng có khi kéo dài lâu hơn để ngăn chặn các triệu chứng lâm sàng mới. Khi bệnh xuất hiện ở động vật trưởng thành, cần chọn kháng sinh với thời gian rút ngắn. Các biện pháp phòng ngừa bệnh này chỉ là tạm thời. Tiêm chủng được khuyến cáo nhằm giảm sử dụng kháng sinh. Tuy nhiên, trong điều kiện khắc nghiệt (chủng độc lực cao), cần hỗ trợ kháng khuẩn để hoàn thiện sự bảo vệ của vắc-xin. Phương pháp điều trị kháng sinh không loại bỏ App từ amidan của động vật mang bệnh.
Chích ngừa: Có nhiều loại vắc-xin thương mại có sẵn. Các loại vắc xin có thể được phân loại như là:
1. Bacterins (rửa sạch và giết chết toàn bộ vi khuẩn): Sự bảo vệ theo loại vắc-xin này là kiểu huyết thanh riêng biệt: bạn cần phải biết kiểu huyết thanh nào có liên quan đến trang trại. Thật không bình thường (không thể khi nguồn gốc khác nhau được hòa lẫn) khi có hơn một kiểu huyết thanh gây bệnh trong một trang trại: cần phải chẩn đoán. Kháng thể phát triển chống lại vắc-xin nhằm hướng đến "kháng nguyên vi khuẩn": viên nang, protein bề mặt, vách tế bào vi khuẩn, vv. Khi những kháng thể có mặt trong phổi động vật, chúng "bám" vào vi khuẩn và các đại thực bào phế nang cũng như các tế bào khác để ăn và phá hủy App. Nếu không có các kháng thể, tế bào thực bào không thể "bắt" vi khuẩn App đang tái sản xuất, sản xuất các sản phẩm khác, độc tố và gây tổn thương.
2. Vắc xin dựa trên độc tố tinh chế (đôi khi được làm giàu với các protein bề mặt): Độc tố ApxI, ApxII và ApxIII xuất hiện. Các chủng App khác nhau sản xuất một hoặc hai độc tố. Sự bảo vệ của vắc-xin thường chống lại tất cả các kiểu huyết thanh bởi vì tất cả chủng App sản xuất một hoặc hai độc tố. Kháng thể phát triển dựa vào vắc-xin này "trung hòa" các độc tố: nhằm ngăn chặn chúng gây tổn thương. Kháng thể không phản ứng với vi khuẩn App: độc tố được tiết ra. Vì vậy, App vẫn có thể sinh sản trong phổi, mặc dù tác dụng độc hại của chất độc được vô hiệu hóa.
3. "Hỗn hợp": Bacterin (đối với các chủng cụ thể) + vaccine dựa trên độc tố tinh chế: nó là một sự kết hợp của "1" và "2". Kháng thể được sản xuất là kháng độc tố và các thành phần chống vi khuẩn (chỉ dành cho kiểu huyết thanh có trong vacxin).
Xin lưu ý rằng loại vắc-xin tự sinh thường là "bacterins". Việc sử dụng nó nên được giới hạn chỉ trong trường hợp khi có quyết định sử dụng bacterin và không biết hoặc không có các kiểu huyết thanh liên quan ở vacxin thương mại. Chủng thuộc kiểu huyết thanh đưa ra có tính kháng nguyên tương tự trên thế giới: một loại vacxin thương mại được sản xuất với kiểu huyết thanh 2 độc nhất ở châu Âu sẽ bảo vệ chống lại một kiểu huyết thanh 2 độc nhất ở châu Á.
Viêm phổi màng phổi cấp tính ở lợn: ba quan sát (chỉ ra bằng mũi tên) có thể thường xuyên thực hiện: vùng từ màu đỏ sẫm đến đen, phù gian tiểu thùy và viêm màng phổi thùy. Hình ảnh của Tiến sĩ Robert Desrosiers.
Chủng ngừa cho lợn con
• Can thiệp mạnh mẽ vào các kháng thể mẹ: thường liều đầu tiên không nên áp dụng trước 7-8 tuần tuổi.
• Không bao giờ sử dụng một liều duy nhất: cần tăng cường một phản ứng.
• Tránh tiêm chủng khi mức độ lây truyền virus PRRS cao xảy ra tại cùng một thời gian trong số lợn con.
• Điều chỉnh độ tuổi tiêm chủng, nếu cần thiết, tùy thuộc vào độ tuổi khi các dấu hiệu lâm sàng xuất hiện, đặc biệt là những dấu hiệu xảy ra vào giai đoạn cuối: một số loại vắc-xin thương mại có các thông tin bảo vệ muộn. Nếu không, việc tiêm phòng có thể được dời lại sau để duy trì bảo vệ cao tại thời điểm hiện diện các dấu hiệu lâm sàng. Cho phép ít nhất 5-6 tuần sau liều đầu tiên để đạt được bảo vệ tốt.
Chủng ngừa cho lợn nái /lợn nái con
• Hai liều (liều thứ hai 3 tuần trước khi đẻ) lần đầu tiên; lặp lại một liều 3 tuần trước khi đẻ mỗi lần.
• Tăng mức độ kháng thể mẹ khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện ở động vật con (không phải là rất bình thường).
• Tăng mức độ kháng thể mẹ nhằm làm giảm / làm chậm sự xâm nhập vào lợn con: trong hệ thống sản xuất nhiều nơi, các kháng thể mẹ sẽ giảm sự lây truyền của động vật mang mầm bệnh lúc cai sữa (khoảng 3 tuần tuổi). Việc giảm sự lây truyền có thể làm giảm /loại bỏ sự hiện diện của các dấu hiệu lâm sàng ở động vật trưởng thành. Chỉ bacterins (với các kháng thể chống lại toàn bộ vi khuẩn) có thể làm suy giảm vi khuẩn: kháng thể "bám vào" toàn bộ vi khuẩn để ngăn ngừa /giảm sự xâm nhập App vào amiđan. Kháng thể chống lại các độc tố tiết ra (vắc xin dựa trên độc tố) không có tác dụng như vậy.
• Chủng ngừa thay thế cho lợn nái con trong quá trình kiểm dịch có thể được thực hiện. Nếu mục tiêu là để bảo vệ động vật dễ bị mắc App (phòng bệnh) thì có thể thực hiện tiêm chủng bacterin hoặc vaccin dựa trên độc tố.
• Mức độ kháng thể cao (sau khi tiêm) không loại bỏ App từ amidan của động vật mang bệnh.
Làm thế nào để đánh giá phản ứng kháng thể ở động vật được tiêm phòng?
• Nếu bacterin được sử dụng: Không có sẵn bộ dụng cụ thương mại (các xét nghiệm ELISA dựa trên LPS) có thể đánh giá chính xác phản ứng sau khi tiêm chủng. Các xét nghiệm đã được chuẩn hóa để phát hiện bệnh, không tiêm phòng.
• Kháng thể sinh ra từ tiêm chủng chủ yếu hướng đến các viên nang vi khuẩn, protein và một số chúng chống lại LPS. Các kháng nguyên được sử dụng trong những thử nghiệm ELISA là LPS tinh khiết: hầu hết sản xuất kháng thể sau khi tiêm chủng có thể không phản ứng với kháng nguyên này: XÉT NGHIỆM ELISA ÂM TÍNH SAU TIÊM không ÁM CHỈ THIẾU KHÁNG THỂ ỨNG PHÓ VỚI VACXIN.
• Ngay cả khi các kháng thể chống lại LPS có thể được sản xuất sau khi tiêm chủng thì bộ dụng cụ thương mại có sẵn được chuẩn hóa để phát hiện lượng kháng thể sau khi nhiễm bệnh, không tiêm phòng. Vì vậy, cần pha loãng huyết thanh để thực hiện thử nghiệm tạo ra kết quả âm tính khi đánh giá phản ứng của kháng thể sau chủng ngừa.
• Chỉ có các xét nghiệm ELISA, sử dụng toàn bộ vi khuẩn làm kháng nguyên (như được sử dụng trong vacxin) có thể được áp dụng để xem phản ứng kháng thể. Độ chuẩn kháng thể trước và sau khi chủng ngừa có thể được so sánh.
• Nếu vacxin dựa trên độc tố được sử dụng: không cần thử nghiệm thương mại để đo kháng thể chống lại ApxI, II và III. Những xét nghiệm này chỉ có thể được các công ty sản xuất vắc-xin thực hiện bởi vì cần kháng nguyên tinh khiết. Các xét nghiệm ELISA ApxIV không thể được sử dụng, vì chất độc này không bao giờ được sản xuất sau khi tiêm chủng (nhiễm bệnh).
Các biện pháp khác để tăng cường ngăn chặn bệnh App
• Sử dụng nghiêm ngặt hệ thống "cùng vào cùng ra"
• Áp dụng đẻ hàng loạt
• Kiểm soát môi trường (nhiệt độ, thông gió, vv)
• Kiểm soát các bệnh nhiễm trùng: chủ yếu là SIV và bệnh suyễn lợn.
Tác giả MarceloGottschalkCanada
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ