Cá tra, basa Phòng Trừ Các Bệnh Thường Gặp Ở Cá Tra, Basa

Phòng Trừ Các Bệnh Thường Gặp Ở Cá Tra, Basa

Ngày đăng 29/12/2010

Phòng Trừ Các Bệnh Thường Gặp Ở Cá Tra, Basa

Cá tra, basa cũng như nhiều loài cá nước ngọt khác, dễ bị nhiễm nhiều loại bệnh phổ biến. Các tác nhân gây bệnh cho cá gồm 2 nhóm là các bệnh truyền nhiễm (do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng) và tác nhân không truyền nhiễm do môi trường, dinh dưỡng hoặc do các vi sinh vật gây ra.

Bệnh trắng da (hay bệnh đốm trắng)

Bệnh dễ xuất hiện khi cá bị sây sát do đánh bắt, san ao, vận chuyển hoặc do nhiệt độ môi trường nước thay đổi đột ngột và quá cao. Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng sau đó lan dần đến cuống đuôi và toàn thân. Cá bị bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước, rồi lộn đầu xuống và chết. Bệnh này xảy ra rất nhanh nên phát hiện và phòng bệnh sớm là rất cần thiết. Để trị bệnh dùng một số kháng sinh và thuốc điều trị (thế hệ mới) trộn vào thức ăn TCB (thức ăn hỗn hợp tự chế) hoặc nghiền mịn và pha thành dung dịch ngâm thức ăn viên để cho cá ăn: Sunfadimezin 5g + Oxytetracyclin 2g/100 kg cá kết hợp trộn vào thức ăn Superfact 250g/100kg thức ăn. Từ ngày thứ 3, liều dùng giảm đi một nửa. Cá có thể khỏi bệnh sau 5 ngày dùng thuốc.

Bệnh huyết đường ruột

Xuất hiện chủ yếu vào các tháng mùa khô. Cá bị bệnh bụng chướng to, hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xung huyết. Cá bơi lờ đờ, tách đàn, biếng ăn. Để phòng bệnh có thể dùng cỏ mực thái nhỏ và nấu chung với thức ăn TCB cho cá ăn, liều lượng 1 kg cỏ mực + 70kg thức ăn. Cứ cách 1 tuần cho ăn một lần nhằm phòng bệnh đường ruột rất tốt. Trị bệnh cho cá nên dùng Sunfathiazon 6g+0,5g Thiromin/100kg cá, hoặc Sunfaguanidin 10g/70kg thức ăn TCB. Cho ăn liên tục 5 ngày liền, từ ngày thứ 3 giảm lượng thuốc đi một nửa.

Bệnh nấm thủy mi

Bệnh gây hại cho cá từ trứng đến cá trưởng thành. Những ao bị nhiễm bẩn, nuôi quá dày đều có thể xuất hiện bệnh nấm. Ao ương nên thay nước mới sạch để hạn chế ngay sự phát triển của nấm thủy mi.

Bệnh trùng bánh xe

Bệnh phổ biến ở giai đoạn cá giống. Khi mới nhiễm bệnh thân cá có lớp nhớt hơi trắng đục, cá thường nổi và thích tập trung nơi nước chảy. Cá bệnh nặng lờ đờ rồi chìm xuống đáy ao và chết. Không nên nuôi ương cá với mật độ quá dày, giữ môi trường nuôi sạch. Trị bệnh dùng nước muối 2 - 3% tắm cho cá bệnh 5 - 15 phút. Dùng Sulphat đồng nồng độ 2 - 5 mg/lít tắm cho cá 10 - 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao nồng độ 0,5 - 0,7 g/m3 nước

Bệnh sán lá 16 móc

Sán thường ký sinh trên mang cá tra, basa cả giai đoạn cá giống và nuôi thịt gây viêm loét thối rữa. Có thể dùng lá cây giác (nông dân ĐBSCL vẫn hay dùng) đập dập và bó thành bó nhỏ treo ở đầu bè để phòng ký sinh sán lá. Ngoài ra có thể dùng vôi bột 5 g/m3 để phòng bệnh. Trị bệnh dùng nước muối 3 - 4% hoặc Sunphat đồng 5 - 7g/m3 tắm cho cá 5 - 10 phút. Dùng Formol nồng độ 15 - 20g/m3 (15 - 20ppm) phun trực tiếp xuống ao nuôi cá.

Xuất hiện quanh năm, ở giai đoạn cá thịt như basa nuôi trong bè, tỉ lệ bệnh tới 100%. Giun hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn và tiêu tốn thức ăn. Phòng trị bệnh đối với cá nuôi bè nên định kỳ 3 tháng một đợt tẩy giun cho cá. Dùng thuốc có gốc Piperazin (thế hệ mới) để tẩy giun cho cá. Mỗi đợt tẩy 3 ngày liên tục.


Kinh Nghiệm Nuôi Cá Tra Lợi Nhuận Cao Kinh Nghiệm Nuôi Cá Tra Lợi Nhuận Cao Nuôi Cá Tra Xuất Khẩu Trong Ao Nuôi Cá Tra Xuất Khẩu Trong Ao