Tôm thẻ chân trắng Sử dụng calcium oxide (CaO) – vôi sống, calcium hydroxide [Ca(OH)2] – vôi tôi để kiểm soát Vibriosis trong các ao nuôi tôm là không thực tế

Sử dụng calcium oxide (CaO) – vôi sống, calcium hydroxide [Ca(OH)2] – vôi tôi để kiểm soát Vibriosis trong các ao nuôi tôm là không thực tế

Ngày đăng 25/09/2015

Sử dụng calcium oxide (CaO) – vôi sống, calcium hydroxide [Ca(OH)2] – vôi tôi để kiểm soát Vibriosis trong các ao nuôi tôm là không thực tế

Xử lý vôi cũng chỉ có tác dụng rất ngắn. Cũng không khuyến khích sử dụng vôi sống vì có thể gây hại cho con người khi dùng xử lý ao.

Người nuôi tôm ở Mỹ Latin thường dùng từ 75 – 100 kg/ha vôi tôi để quản lý dịch bệnh do các loài vi khuẩn gây bệnh Vibrio cho kết quả không ổn định. Cuối cùng, nhiều người nuôi phải dùng men vi sinh (probiotic) hoặc kháng sinh để kiểm soát bệnh Vibriosis.

Ing. Juan Portal

Technical Assistance Manager, Nicovita – Alicorp SAA, Av. Panamericana Norte

Km. 1272, Tumbes, Peru

Tiến sĩ Carlos A. Ching

Aquaculture Manager, Nicovita – Alicorp SAA, Callao, Lima, Peru

Dù xử lý vôi chứng tỏ hiệu quả tốt trong kiểm soát các loại bệnh tôm như hội chứng Taura và hội chứng đốm trắng nhờ giữ mức kiềm tối ưu, các thử nghiệm được thực hiện ở Khoa Kỹ thuật Thủy sản tại Đại học Tumbes ở Peru đã cho thấy sử dụng vôi để kiểm soát Vibriosis có thể không thực tế.

Việc này căn cứ vào các hàm lượng ức chế tối thiểu được nhận thấy đối với vôi tôi và vôi sống chống lại các dòng vi khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticusV. alginolyticus. Trong trường hợp này sẽ cần sử dụng vôi tôi 4.000 kg/ha để kiểm soát Vibrio alginolyticus và 9.000 kg/ha đối với Vibrio parahaemolyticus. Nếu dùng với các hàm lượng cao như thế, vôi có thể làm cho pH nước dao động mạnh và gây căng thẳng cho tôm nhiễm bệnh.

Hàm lượng ức chế

Nghiên cứu được thực hiện để xác định hàm lượng ức chế tối thiểu của calcium oxide (vôi sống) và calcium hydroxide (vôi tôi) kháng lại các dòng vi khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus and V. alginolyticus được phát hiện ở một trang trại tôm gần khu học xá Đại học Tumbes và được phân lập trên môi trường thạch.

Cả hai loại vôi được thí nghiệm ở hàm lượng vi khuẩn tinh khiết 5 x 103 CFU/ml cho thời gian ủ là 24 giờ ở nhiệt độ 28°C.

Ứng dụng phỏng theo các phương pháp tiêu chuẩn được mô tả bởi Hội đồng Quốc gia Mỹ về Tiêu chuẩn Phòng Thí nghiệm Lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy các giá trị hàm lượng ức chế tối thiểu (MIC) với mức xử lý calcium oxide 30 ppm chống lại cả hai loài vi khuẩn V. parahaemolyticus and V. alginolyticus, calcium hydroxide 900 ppm chống lại V. parahaemolyticus và 400 ppm kiểm soát được V. alginolyticus.

Bảng 1. Các tác động ức chế của calcium oxide chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.

Hàm lượng

Calcium Oxide

Lập lại

 

Mức độ

hiệu quả

1

2

3

4

5

100 ppm

90 ppm

80 ppm

70 ppm

60 ppm

50 ppm

40 ppm

30 ppm

20 ppm

10 ppm

0 ppm

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

100%

100%

100%

100%

100%

100%

100%

100%

40%

0%

0%

Bảng 2. Các tác động ức chế của calcium oxide chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio alginolyticus

Hàm lượng

Calcium Oxide

Lập lại

 

Mức độ

hiệu quả

1

2

3

4

5

100 ppm

90 ppm

80 ppm

70 ppm

60 ppm

50 ppm

40 ppm

30 ppm

20 ppm

10 ppm

0 ppm

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

100%

100%

100%

100%

100%

100%

100%

100%

20%

0%

0%

Bảng 3. Các tác động ức chế của calcium hydroxide chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.

Hàm lượng

Calcium

Hydroxide

Lập lại

 

Mức độ

hiệu quả

1

2

3

4

5

1 ppt

900 ppm

800 ppm

700 ppm

600 ppm

500 ppm

400 ppm

300 ppm

200 ppm

100 ppm

0 ppm

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

100%

100%

40%

0%

0%

0%

0%

0%

0%

0%

0%

Bảng 4. Các tác động ức chế của calcium hydroxide chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio alginolyticus

 

Hàm lượng

Calcium

Hydroxide

Lập lại

 

Mức độ

hiệu quả

1

2

3

4

5

1 ppt

900 ppm

800 ppm

700 ppm

600 ppm

500 ppm

400 ppm

300 ppm

200 ppm

100 ppm

0 ppm

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

100%

100%

100%

100%

100%

100%

100%

0%

0%

0%

0%

+ = positive inhibitory effect, – = negative inhibitory effect

Bảng 5. Thông số nước được lấy trước và một giờ sau khi xử lý vôi sống và vôi tôi.

 

Thông số nước ao

Trước khi

xử lý vôi

Một giờ sau khi xử lý

 

   

Đối chứng

Calcium Oxide

Calcium Hydroxide

pH

Nhiệt độ (°C)

Oxy hòa tan (mg/L)

Tổng kiềm (ppm)

Tổng độ cứng (ppm)

8,5

30

5,5

158

3.560

8,6

30,5

5,4

153

3.550

9,8

30,6

5,4

159

3.540

9,5

30,5

5,6

162

3.550

Các thực nghiệm được thực hiện thành 2 giai đoạn: giai đoạn thăm dò sử dụng phạm vi hàm lượng rộng cho cả hai loại vôi và ở giai đoạn cuối thì thu thập được các giá trị chính xác hơn (Bảng 1 – 4). Cả hai loại vôi sống và vôi tôi được sử dụng ở hàm lượng ức chế tối thiểu cho thấy các tác động ức chế nhưng đã gặp phải vấn đề pH môi trường tăng đột ngột.

Các tác động ức chế đã xảy ra ở các mức pH trên 9,5 đối với vôi sống và trên 9,0 với vôi tôi. Khi sử dụng các giá trị hàm lượng ức chế tối thiểu của cả hai loại vôi này vào trong nước ao thì nhận thấy tác dụng của vôi sống kéo dài trong 10 phút và tác dụng của vôi tôi kéo dài 15 phút.

Kiểm soát bệnh Vibriosis

Một số người nuôi tôm Mỹ Latin đã báo cáo các kết quả tốt khi sử dụng vôi tôi chống lại sự tấn công của vi khuẩn gây bệnh Vibrio ở hàm lượng 75-100 kg/ha dựa vào “khả năng tẩy trùng” ở hàm lượng như thế. Tuy nhiên, các tác giả đã ghé thăm một số trang trại nuôi tôm ở Mỹ Latin có các kết quả chưa chắc chắn về việc sử dụng hàm lượng các loại vôi này.

Người nuôi đánh lượng vôi 75-100 kg/ha cuối cùng đã phải dùng các phương pháp khác như là sử dụng probiotic ( men vi sinh, men tiêu hóa) hoặc kháng sinh trong thức ăn để vượt qua sự bùng phát Vibrio.

Cũng trong nghiên cứu này, dùng lượng vôi sống và vôi tôi 75kg/ha vào trong bể chứa nước ao có các dòng vi khuẩn gây bệnh Vibrio đã thí nghiệm hàm lượng ức chế tối thiểu. Các kết quả đã cho thấy việc sử dụng này không thành công trong việc kiểm soát quần thể vi khuẩn, ngay cả khi ở các mức thông số nước tối ưu (Bảng 5).

Các triển vọng

Dù nghiên cứu này nhận thấy hàm lượng vôi sống (300kg/ha) cần để ức chế các loài Vibrio ít hơn vôi tôi là 4.000 và 9.000 kg/ha, không khuyến khích sử dụng vôi sống bởi vì nó có thể gây hại cho công nhân sử dụng.

Sự gia tăng pH nước đột ngột do dùng vôi sống có thể cũng gây căng thẳng cho tôm trong thời kỳ bùng phát Vibrio.

Tags: nuoi tom, nuoi trong thuy san, thuy san, con tom, nuoi tom, ao nuoi tom, quan li trong nuoi tom, voi


Có thể bạn quan tâm

Chế độ cho ăn bổ sung tế bào vi khuẩn probiotic (Bacillus coagulans) có lợi cho tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei Chế độ cho ăn bổ sung tế bào… Đánh giá in vitro các sản phẩm men vi sinh thương phẩm được sử dụng cho nuôi tôm biển ở Thái Lan Đánh giá in vitro các sản phẩm men…