Hướng dẫn thủ tục và phương pháp thực hành dành cho nghiên cứu nuôi trồng thủy sản - Phần 3
1. Nghề chăn nuôi (tiếp theo)
1.2. Quản lý bệnh tật và sức khỏe
Các bệnh truyền nhiễm rất phổ biến trong nuôi trồng thủy sản thâm canh và có thể gây ra tỷ lệ tử vong đáng kể. Theo dõi thường xuyên và quản lý phù hợp là điều cần thiết để giữ cho cá có sức khỏe tốt. Thông tin sẵn có về những bệnh lý trên động vật thủy sinh, đặc biệt là những căn bệnh của cá nước ngọt bản địa và những căn bệnh này được mô tả trong Rowland và Ingram (1991), Callinan và Rowland (1995), Ingram và cộng sự (2005) và Read và cộng sự (2007) (xuất bản mới đây cung cấp thêm chi tiết có liên quan đến chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh tật ở cá rô bạc). Tuy nhiên, khi đem so với dịch bệnh của động vật trên cạn thì nhiều vấn đề sức khỏe của động vật thủy sinh vẫn còn chưa được xác định rõ ràng. Do đó, mặc dù một số thông tin được cung cấp dưới đây có liên quan đến một số vấn đề sức khỏe cá thường gặp nhiều hơn, nhưng những thông tin này chỉ được cung cấp để đưa ra thông tin chứ không được coi là hướng dẫn có thẩm quyền để chẩn đoán và điều trị bệnh cho cá. Do đó, điều rất quan trọng là các trường hợp dịch bệnh trên cá phải được điều tra nghiên cứu một cách thích hợp (đặc biệt là khi nguyên nhân gây tử vong hoặc trường hợp dịch bệnh không rõ ràng) và nên tìm kiếm lời khuyên thú y phù hợp và/ hoặc tài liệu gửi đến phòng thí nghiệm chẩn đoán để điều tra nghiên cứu thêm.
1.2.1. Các căn bệnh ở thủy sản cần lưu ý
Theo Đạo luật Quản lý Thủy sản năm 1994, một số căn bệnh trên động vật thủy sinh được liệt kê thành danh sách các bệnh lý đã được công bố và các nhà nghiên cứu cần lưu ý đến các nghĩa vụ liên quan đến việc thông báo về các bệnh lý này. Cụ thể, bất cứ khi nào một nhà nghiên cứu biết hoặc có lý do để nghi ngờ sự hiện diện của bất kỳ bệnh lý đã được công bố nào thì họ “…. phải thông báo về khả năng lây nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm trùng cho Cán bộ Kiểm ngư càng sớm càng tốt.”Thông báo về sự hiện diện của các bệnh lý đã được công bố bị nghi ngờ hoặc đã được xác nhận phải được gửi cho Trưởng nhóm Chiến lược, An toàn sinh học Thủy sản, Sở kế hoạch và đầu tư bang NSW, những người có thể được liên hệ thông qua danh bạ văn phòng của Viện Thủy sản Port Stephens. Nhân viên an toàn sinh học có thể tư vấn về việc gửi mẫu hợp lệ đến phòng thí nghiệm chẩn đoán để xác nhận hoặc loại trừ mối nghi ngờ dính líu tới một bệnh lý đã được công bố bị nghi ngờ.
Các nghĩa vụ báo cáo sự hiện diện bị nghi ngờ hoặc đã xác nhận của các bệnh lý đã được công bố này không chỉ liên quan đến cá được nuôi hoặc nhốt trong các cơ sở thí nghiệm, mà còn mở rộng đến các quần thể cá trong tự nhiên mà nhà nghiên cứu có thể gặp phải trong quá trình nghiên cứu của họ.
Danh sách các bệnh lý được công bố của bang NSW theo Đạo luật Quản lý Thủy sản năm 1994 liên quan đến cá voi vây (các bệnh lý khác được liệt kê đối với động vật thân mềm và loài giáp xác) có thể được tải xuống từ địa chỉ www.legislation.nsw.gov.au. Vào tháng 2 năm 2015, danh sách các bệnh lý đã được công bố như sau:
• Hoại tử cơ quan tạo máu do vi rút EHN
• Virus cá da trơn Châu Âu, virus cá nheo Châu Âu (Ex)
• Hoại tử cơ quan tạo máu do IHNV (Ex)
• Bệnh do vi rút Oncorhynchus masou trên cá hồi (Ex)
• Bệnh xuất huyết mùa xuân ở cá chép (Ex)
• Nhiễm trùng huyết do vi rút (Ex)
• Bệnh do vi rút ở cá nheo (Ex)
• Bệnh hoại tử thần kinh
• Hoại tử tuyến tụy (Ex)
• Nhiễm vi-rút thiếu máu cá hồi lây nhiễm HPR hoặc vi-rút HPRO (Ex)
• Bệnh vi khuẩn ở thận cá (Renibacterium salmoninarum) (Ex)
• Bệnh đốm trắng nội tạng (bệnh gan thận mủ) ở cá da trơn (Edwardsiella ictaluri) (A)
• Bệnh Piscirickettsiosis (Piscirickettsia salmonis) (Ex)
• Gyrodactylosis (Gyrodactylus salaris) (Ex)
• Bệnh do vi rút ở cá tráp biển đỏ (Ex)
• Bệnh nhọt (Aeromonas salmonicida subsp. Salmonicida) (Ex)
• Aeromonas salmonicida — các chủng không điển hình
• Bệnh biến dạng do ký sinh trùng trên cá hồi (Myxobolus brainis) (Ex:)
• Bệnh đỏ miệng đường ruột (Yersinia ruckeri — chủng Hagerman) (Ex)
• Bệnh do vi rút herpes gây ra trên cá chép koi (Ex)
• Bệnh do vi rút iridoviral gây ra trên cá mú (Ex)
• Vi rút hoại tử lá lách và thận bị nhiễm trùng- ISKNV giống như vi rút (Ex)
• Nhiễm trùng họ cá hồi do vi rút alpha (Ex)
- Các bệnh được đánh dấu (Ex) được coi là kỳ lạ đối với Úc
- Các bệnh được đánh dấu (A) được coi là có ở Úc, nhưng không có ở bang NSW
- Các dịch bệnh không được đánh dấu được biết là tồn tại ở một số khu vực của bang NSW, nhưng vẫn được thông báo cho Sở kế hoạch và đầu tư của bang NSW theo Đạo luật Quản lý Nghề cá về các bệnh lý đã được công bố
1.2.2. Nhiễm ký sinh trùng
Ngoại ký sinh là những mầm bệnh thường gây bệnh cho cả cá nước ngọt và cá biển. Nếu không được điều trị thì các bệnh do ký sinh trùng có thể gây ra tỷ lệ tử vong rất cao. Bệnh nhiễm ký sinh trùng chiếm khoảng 80% tổng số bệnh trên cá rô bạc (Rowland và cộng sự 2007).
Ký sinh trùng và căn nguyên, chẩn đoán và biện pháp xử lý ký sinh trùng ở cá nước ngọt bản địa Úc được miêu tả chi tiết bởi Rowland & Ingram (1991), Callinan và Rowland (1995) và Read và cộng sự (2007). Các loại ký sinh trùng phổ biến nhất của cá nước ngọt bản địa là động vật nguyên sinh ciliate Ichthyophthirius multifiliis (gây bệnh ichthyophthiriosis hoặc đốm trắng), Chilodonella hexasticha (chilodonellosis) và trùng bánh xe Trichodina sp. (Trichodinosis), trùng roi Ichthyobodo (ichthyobodosis) và sán lá đơn gen hoặc sán lá mang. Loài sán lá mang xâm nhập cá rô bạc là Lepidotrema bidyana. Tất cả các loại ký sinh trùng này đều xâm nhập vào mang và các mô da và có thể dễ dàng chẩn đoán được bằng kính hiển vi. Các đợt bùng phát thường có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng formalin trong ao hoặc muối hoặc formalin trong bể (để biết thêm chi tiết hãy xem Read và cộng sự 2007).
1.2.3. Nhiễm nấm
Mốc nước (Class Oomycetes) có mặt ở khắp nơi và khiến cho cá bị nhiễm nấm. Có một số bệnh nhiễm nấm phổ biến ở cá nước ngọt và cá biển; hai ví dụ là nốt sùi (xuất hiện giống như bông gòn trên da hoặc mang) do Saprolegnia parasitica gây ra và Hội chứng lở loét biểu bì (EUS hoặc bệnh đốm đỏ) do Aphanomyces xâm nhập gây ra. Nấm thường là những kẻ cơ hội thường ăn các mô chết và có thể lây nhiễm sang cá khi lớp biểu của cá bì bị tổn thương và/ hoặc hệ thống miễn dịch bị ức chế. Chúng thường được coi là mầm bệnh thứ cấp. Nhiễm nấm thường có thể tránh được bằng việc chăn nuôi đúng cách, xử lý cẩn thận và duy trì chất lượng nước tốt. Việc sử dụng dự phòng 2-5 g/L NaCl trong bể sẽ ngăn ngừa nhiều bệnh nhiễm trùng do nấm và việc sử dụng formalin có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của đợt bùng phát một khi bệnh nhiễm trùng bắt đầu trong ao hoặc bể. Phòng ngừa bệnh nhiễm nấm nói chung thì dễ hơn nhiều so với việc kiểm soát bệnh.
Dưới đây là danh sách các phương pháp điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn và nấm và ngoại ký sinh trùng được các nhà khoa học của sở kế hoạch và đầu tư bang NSW (Công nghiệp cá) thiết lập và sử dụng phổ biến.
1.2.4. Nhiễm khuẩn
Tỷ lệ nhiễm bệnh do vi khuẩn ở cá nước ngọt bản địa thấp (<3%) và chúng gây ra ít vấn đề tại các cơ sở áp dụng phương pháp quản lý sức khỏe và chăn nuôi cá đúng cách. Nhiễm khuẩn thường xảy ra sau các giai đoạn căng thẳng nghiêm trọng do xử lý thô bạo và chất lượng nước kém, đặc biệt là do nồng độ ôxy hòa tan thấp và hàm lượng amoniac cao; sự kết hợp của các yếu tố này sẽ dẫn đến cá bị nhiễm trùng. Đối với ấu trùng cá, vi khuẩn cũng có thể được ăn vào bụng cùng với thức ăn và có thể sinh sôi nẩy nở trong ruột.
Các bệnh do vi khuẩn gây ra có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh. Vì tác dụng của thuốc kháng sinh thường đặc hiệu với mầm bệnh, điều quan trọng là phải chẩn đoán chính xác bệnh do vi khuẩn gây ra để đảm bảo việc áp dụng liều lượng và kháng sinh hiệu quả nhất (Rowland & Ingram, 1991). Thuốc kháng sinh chỉ nên được sử dụng để điều trị một bệnh do vi khuẩn đã được chẩn đoán và không nên được sử dụng dự phòng vì việc sử dụng trong thời gian kéo dài hoặc lặp lại với liều lượng không đủ để tiêu diệt vi khuẩn có thể dẫn đến sự phát triển của các chủng kháng thuốc mà sau đó các chủng này sẽ rất khó điều trị (Rowland & Ingram, 1991). Đối với hầu hết các loại thuốc kháng sinh thì không được phép phát hiện dư lượng trong thức ăn bằng cá ở Úc. Vì cá 'nghiên cứu' không nên đưa vào chuỗi thức ăn, điều này không nên trở thành một vấn đề.
Dấu hiệu và chẩn đoán
Nhiễm trùng do vi khuẩn bên ngoài có thể dễ dàng nhận ra bởi tình trạng viêm da (đỏ và sưng), ăn mòn vây, tổn thương và lở loét và/ hoặc toàn bộ tập đoàn vi khuẩn (ví dụ: vi khuẩn Flexibacter) xuất hiện trên lớp biểu bì trên thân mình hoặc vây. Các dấu hiệu khác có thể là chứng mắt lồi (mắt lồi ra), sưng bụng, có dịch trong khoang cơ thể và tổn thương ở các mô như lá lách, gan và thận. Vi khuẩn có thể được xác định bằng cách gửi cá đến phòng thí nghiệm mô học/ bệnh học để phân tích. Các mẫu tốt nhất là cá sắp chết, mẫu cá nên được gửi đến phòng thí nghiệm khi cá còn sống (nếu có thể).
Nếu không, có thể đặt cá mới chết hoặc vừa bị giết chết mà không đau đớn vào trong túi nhựa nằm trên đá để bảo quản và có thể thích hợp để phân tích sau khi giết mổ nếu không thể gửi cá còn sống đến phòng thí nghiệm. Điều quan trọng là các mẫu đó phải được giữ lạnh chứ không được đông lạnh
Tại bang NSW, Viện Nông nghiệp Elizabeth Macarthur (EMAI) Menangle, bang NSW là một phòng thí nghiệm chẩn đoán tiếp nhận các mẫu cá gửi đến để chẩn đoán bệnh.
Để biết thêm thông tin liên quan đến bài mô tả về các triệu chứng và phương pháp điều trị đối với một số bệnh nhiễm vi khuẩn trên loài cá cụ thể phổ biến, hãy tham khảo Read và cộng sự (2007).
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ