Nâng cao hiệu quả mô hình tôm lúa trước tác động biến đổi khí hậu
Chưa phát huy hết hiệu quả
Tại hội thảo về phát triển tôm - lúa vừa được Tổng cục thủy sản (Bộ NN&PTNT) tổ chức tại TP. Cần Thơ, ông Ngô Công Chính, viện trưởng Viện quản lý và phát triển châu Á (AMDI) cho biết: Sơ khai của hệ thống tôm - lúa đã hình thành từ năm 1970 với việc người dân thu tôm giống tự nhiên (tôm bạc, tôm đất...) vào ruộng từ các con nước trong mùa khô khi việc sản xuất lúa không hiệu quả tại các vùng ven biển. Tôm sú được đưa vào ruộng nuôi bắt đầu từ những năm 1990 là kết quả thành công tôm giống trong điều kiện sản xuất nhân tạo. Sự chủ động về nguồn giống tôm thả nuôi cùng việc xuất khẩu tôm được mở ra và ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ tôm đã thúc đẩy nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ĐBSCL, trong đó có mô hình tôm - lúa phát triển.
Theo Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản (Bộ NN&PTNT), cùng với quá trình xâm nhập mặn, nuôi tôm - lúa là hình thức nuôi có tốc độ tăng trưởng nhanh ở ĐBSCL. Hàng năm, 1ha tôm - lúa có thể sản xuất 300 - 500kg tôm và 4 - 7 tấn lúa. Nuôi tôm - lúa là hình thức nuôi trồng được đánh giá là mô hình canh tác hiệu quả, đầu tư thấp. Tôm nuôi trong ruộng sử dụng chủ yếu thức ăn tự nhiên, chi phí thức ăn thấp, ít dịch bệnh, tôm nuôi thương phẩm có chất lượng (do ít dùng hóa chất, kháng sinh), môi trường sinh thái được bảo vệ do lúa sử dụng các sản phẩm thải từ nuôi tôm và mô hình nuôi trồng phù hợp với điều kiện sinh thái ở các vùng ven biển bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, không có khả năng trồng lúa quanh năm.
Theo đánh giá của AMDI, hệ thống tôm - lúa là phương thức canh tác hiệu quả không chỉ về kinh tế mà còn là phương thức canh tác bền vững, có ý nghĩa nhiều mặt. Tuy nhiên, xu thế nước biển dâng cao, sự xâm nhập mặn sâu hơn, mùa khô kéo dài, nắng nóng hơn, mùa mưa ngắn hơn, lượng mưa ít, cộng với việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đang và sẽ ảnh hưởng đến phát triển bền vững của hệ thống tôm - lúa nói riêng ở ĐBSCL.
Giải pháp phát triển bền vững
Về các giải pháp cụ thể, AMDI cho rằng: Mô hình tôm - lúa có nuôi tôm giống, cua giống trước khi thả nuôi mang lại hiệu quả rõ rệt cần được mở rộng. Tuy nhiên, để nông dân ươm giống có hiệu quả cần các hướng dẫn, tập huấn chi tiết về các chỉ tiêu diện tích ươm, thiết kế ao ươm, mật độ thả, chế độ chăm sóc, thời gian ươm... Mô hình thả nuôi nhiều loài (tôm sú, cua biển) trong vụ nuôi tôm và thả xen tôm càng xanh trong vụ lúa cũng nên được khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, để tối ưu hiệu quả của mô hình này cần nghiên cứu tỷ lệ thả ghép tối ưu trong các điều kiện môi trường khác nhau.
Mô hình ươm tôm giống trước khi thả nuôi trong mô hình tôm - lúa mang lại hiệu quả rõ rệt như nâng cao tỷ lệ sống, giảm chi phí giống, tăng năng suất tôm nuôi nên cần được nhân rộng cho toàn vùng. Để nhân rộng các mô hình có hiệu quả cần triển khai các mô hình ở phạm vi rộng, ngoài các mô hình trình diễn, tổ chức đào tạo, tập huấn thì việc có đội ngũ khuyến ngư viên trực tiếp hỗ trợ kỹ thuật với người dân là rất quan trọng.
Chính sách hỗ trợ sản xuất, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ xây dựng cánh đồng mẫu lớn cho vùng tôm - lúa cần được áp dụng. Chính sách hỗ trợ trực tiếp tiền cho nông dân trồng lúa theo quy định của Nghị định 42/2012/NĐ-CP hạn chế về hiệu quả nên thay đổi theo hướng căn cứ vào diện tích trồng lúa ở từng cộng đồng, từng vùng, khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ cộng đồng xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các công trình hạ tầng phục vụ nuôi tôm, trồng lúa có hiệu quả.
Cần có biện pháp quản lý khắc phục tình trạng tôm giống trôi nổi, không rõ nguồn gốc, không kiểm dịch đang khá phổ biến ở vùng tôm - lúa ở vùng ĐBSCL. Ngoài việc nâng cao năng lực các cơ sở dịch vụ kiểm dịch, tăng cường kiểm soát các cơ quan quản lý về chất lượng tôm giống, việc thay đổi phương thức quản lý chất lượng tôm giống là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác nghiên cứu tạo ra các giống lúa có thể phát triển tốt ở độ mặn trên 5‰.
Mạng lưới quan trắc môi trường vùng nuôi thủy sản ở ĐBSCL, trong đó có vùng tôm - lúa cần được củng cố, nâng cao năng lực. Để nâng cao chất lượng đầu tư hạ tầng vào vùng tôm - lúa cần có một quy hoạch lâu dài sử dụng đất toàn vùng ĐBSCL được thống nhất cao giữa các ngành, các địa phương, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch phát triển hạ tầng thủy lợi. Quy hoạch hạ tầng thủy lợi phải xem xét đến biến đổi khí hậu và phát triển các vùng trung, thượng lưu sông Mekong.
Cần đẩy mạnh việc tổ chức sản xuất tổ hợp tác, hợp tác xã vùng tôm - lúa. Các hợp tác xã với mô hình cánh đồng mẫu lớn tôm - lúa sẽ khắc phục được các hạn chế do ảnh hưởng của tập quán sản xuất nhỏ lẻ. Tổ chức liên kết giữa nông dân sản xuất tôm - lúa với doanh nghiệp cung ứng con giống, vật tư sản xuất, với các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm sẽ mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ổn định, hiệu quả.
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ