Tin thủy sản Nước bẩn có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và tốc độ tăng trưởng của tôm trong hệ thống RAS

Nước bẩn có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và tốc độ tăng trưởng của tôm trong hệ thống RAS

Tác giả 2LUA.VN biên dịch, ngày đăng 05/06/2021

Nước bẩn có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và tốc độ tăng trưởng của tôm trong hệ thống RAS

Robins McIntosh - Phó chủ tịch điều hành của Charoen Pokphand Foods (CP) và Giám đốc điều hành của Homegrown Shrimp giải thích về một phương pháp quản lý vi sinh vật mới trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) và điều này đang giúp ông sản xuất tôm kích cỡ thị trường trong thời gian kỷ lục như thế nào.

Robins McIntosh là Giám đốc điều hành của Homegrown Shrimp

McIntosh gia nhập CP Foods vào năm 2001, ông đã chịu trách nhiệm về một số cải tiến đáng chú ý nhất trong ngành chăn nuôi tôm trong 20 năm qua (bao gồm việc xây dựng trang trại không thay nước đầu tiên ở Belize và xây dựng trang trại nuôi tôm an toàn sinh học đầu tiên ở Mỹ Latinh). Gần đây ông quan sát sự phát triển của một trang trại nuôi tôm thí điểm tại một khu rừng cam quýt nhỏ trước đó ở một thị trấn của Ấn Độ cách bờ biển Florida 40 dặm với mục đích sản xuất lên tới 1,000 tấn tôm hằng năm mà không xả thải. Ông hy vọng nó sẽ hoạt động như một bản thiết kế chi tiết dành cho một loạt các trang trại nuôi tôm homegrown (một trang trại trên đất liền mà không có trang trại xung quanh), gần các khu vực mà có nhu cầu cao nhất về tôm chất lượng. Như ông đã giải thích với các đại biểu tại hội thảo đào tạo trực tuyến do Chi hội Châu Á - Thái Bình Dương của Hiệp hội Nuôi trồng Thủy sản Thế giới tổ chức ngày hôm nay.

McIntosh đã trình bày những kết quả từ các cuộc thử nghiệm, kết quả cho thấy chủng tôm Bolt có thể tăng trưởng đến gần 30 g chỉ trong 47 ngày (nhanh hơn khoảng 10 ngày so với mức trung bình) nếu vụ nuôi được tạo điều kiện lý tưởng.

Đặc biệt, ông tập trung vào những nguy cơ làm giảm sự phức tạp của vi khuẩn trong hệ thống tuần hoàn RAS.

“Vào đầu những năm 1980, chúng tôi đã hoạt động các trại sản xuất giống và chúng tôi không thực sự sử dụng biện pháp khử trùng mà phần lớn chúng tôi đã sử dụng bộ lọc và chúng khá ổn áp. Đối với trại sản xuất giống đầu tiên vào năm 1988-1989 khi đó chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đang nâng cao công nghệ bằng cách áp dụng phương pháp khử trùng thì đột nhiên trại giống gặp phải rất nhiều, rất nhiều các vấn đề. Đôi khi chúng tôi có những bể nuôi thành công nhưng cũng đôi khi bể nuôi của chúng tôi lại thất bại. Và tôi bắt đầu suy nghĩ mà không thực sự hiểu bất cứ điều gì về việc tại sao bể nuôi này tốt còn bể nuôi kia tệ, rốt cuộc sự khác biệt là gì?” ông nhắc lại.

“Kết luận của tôi dành cho chính bản thân tôi là sự khác biệt đó phải là vi sinh vật, còn mọi thứ khác đều không đổi. Và do đó, nếu tôi có thể nhìn thấy các vi khuẩn có lợi trong bể một cách thường xuyên thì tôi có thể tăng xác suất thành công của một bể,”ông cho biết thêm.

“Một kinh nghiệm khác về phương pháp khử trùng sẽ xảy ra cùng với EMS [hội chứng tử vong sớm], đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hội chứng tử vong sớm trở lại vào năm 2009 ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, rồi sau đó tôi theo dõi sự hoạt động của hội chứng này và theo thời gian tôi đã nhận thấy rằng cứ hai ba năm nó lại diễn ra một lần mà hội chứng này dường như luôn tương ứng với hoạt động khử trùng ao và khi chúng tôi càng khử trùng nhiều hơn thì hội chứng tử vong sớm càng trầm trọng hơn. Tôi thậm chí đã đưa những quan sát đó vào các cuộc thử nghiệm trong phòng thí nghiệm nhỏ của mình và các trung tâm thử thách di truyền học của tôi và thực tế đã xác định rằng nếu tôi có một hệ sinh thái phức tạp hơn thì tôi sẽ ít có cơ hội bị vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus xâm lấn và gặp ít vấn đề hơn. Nếu tôi đơn giản hóa hệ sinh thái bằng cách khử trùng thì tôi sẽ gặp phải những vấn đề tồi tệ nhất,” ông giải thích.

“Sau đó, chúng tôi nói về biện pháp tái chế và chúng tôi đã luôn biết rằng thậm chí từ những năm 1990, khi đó tôi áp dụng biện pháp tái chế vào các bể nuôi thương phẩm của chúng tôi, nếu tôi tái chế nước thì tôi sẽ thu được kết quả tốt hơn khi tôi áp dụng dòng chảy một chiều. Và lại một lần nữa đó là vì sự ổn định mà ổn định ở đây là ổn định các quần thể vi sinh vật, ổn định các quần thể môi trường. Vì vậy, sự ổn định là điều rất, rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình này,” ông cho biết thêm.

Sau đó, McIntosh tiếp tục giải thích cách ông áp dụng những phát hiện này  vào Homegrown Shrimp như thế nào.

Ông lưu ý: “Về cơ bản, hình thức nuôi tôm tự túc được xây dựng như một trang trại dựa trên khái niệm: nuôi tôm ở bất cứ nơi đâu, nuôi tôm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, trang trại hoàn toàn an toàn sinh học và không xả nước thải."

Tầm nhìn của McIntosh đối với trang trại (hiện đang gần hoàn thiện) là để tôm được sản xuất trong các điều kiện tối ưu mà tại đó nước được duy trì không đổi ở nhiệt độ 30°C.

Do các quy định và vị trí được đất liền bao quanh của trang trại nên họ không được phép xả bất kỳ giọt nước thải nào và phải bù nước bằng cách sử dụng nước ngầm và bổ sung thêm muối.

“Tất nhiên đó là một quá trình tốn kém nếu như bạn xả bỏ lượng nước này, nhưng chúng tôi phải tái sử dụng nó, vì thế chúng tôi phải tái chế,” ông giải thích.

Sau đó, ông tiếp tục liệt kê một số lý do tại sao việc tuần hoàn nước lại là một ý tưởng hay.

Ông lưu ý: “Đây là một trang trại và trại sản xuất giống tôm nội địa và sử dụng nước biển có pha muối nhân tạo với nước ngọt uống được, vì vậy, ngoài việc tái chế hoặc tuần hoàn nước thì bất kể hành động nào cũng đều rất tốn kém," ông lưu ý.

Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng tôm sạch mầm bệnh cụ thể (SPF).

“SPF là một thành phần quan trọng của bất cứ thứ gì và mọi thứ tôi làm và đó là điều tạo nên Homegrown rất dễ vận hành. Nó rất giống các cơ sở lai giống tôm bố mẹ sạch bệnh của tôi. Việc chăn nuôi ở đó rất dễ dàng, chúng tôi có được 95% tỷ lệ sống sót trong các cơ sở nhân giống hạt nhân của chúng tôi. Chúng tôi không sử dụng nước biển, chúng tôi sử dụng nước nhân tạo đã được tái chế. Tôi đã sử dụng cùng một loại nước trong quá trình nhân giống hạt nhân của chúng tôi trong khoảng 15 năm, vì vậy chúng tôi đã tái chế chúng rất nhiều lần," ông nhận xét.

Ông giải thích: “Và nước được tuần hoàn thì ổn định hơn về mặt vi sinh học và cho kết quả vượt trội hơn - khi trưởng thành, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ thu được khả năng sinh sản cao hơn khi tái chế hoặc tuần hoàn và thu được tỷ lệ sống sót cao hơn."

“Tại Homegrown, chúng tôi sẽ sử dụng một giống mới mà tôi đã phát triển chỉ để nuôi trong nhà ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Tôi gọi nó là Bolt, nó được đặt theo tên của Usain Bolt, ông là một con người rất nhanh nhẹn, vì vậy đây là một loài tôm lớn rất nhanh. Tôi biết rằng đó là loài tôm lớn nhanh nhất trên thế giới,” ông quả quyết.

Thật vậy, sau đó ông đã trình bày kết quả từ các cuộc thử nghiệm cho thấy rằng tôm có thể lớn đến gần 30 g chỉ trong 47 ngày (nhanh hơn khoảng 10 ngày so với mức trung bình) nếu vụ nuôi được tạo điều kiện lý tưởng.

Các biện pháp xử lý nước

Sau đó McIntosh tiếp tục mô tả quy trình xử lý nước mà ông đã phát triển.

“Chúng tôi phải khử trùng đối với các mầm bệnh cụ thể nhưng khi chúng tôi khử trùng, chúng tôi loại bỏ tất cả các vi khuẩn phức tạp, vi khuẩn trưởng thành và bởi vì chúng tôi luôn thay nước nên về cơ bản chúng tôi luôn ở trong tình trạng thay đổi liên tục. Vì vậy, tôi đã phát triển ý tưởng cách đây vài năm về việc điều hòa nước cẩn thận,” ông giải thích.

Sử dụng nước đã tái chế kỹ lưỡng khiến tỷ lệ sống sót của chúng tôi tăng 10% và kích cỡ của tôm tăng lên, có nghĩa là chúng là động vật khỏe mạnh hơn. Vì vậy, sau một tháng thực hiện điều này, trại giống đã được thuyết phục bởi ý tưởng này

Điều này liên quan đến việc lắp đặt các bể điều hòa có chứa “một phức hợp gồm bột sắn, urê, amoniac, phốt phát, natri silicat và một men vi sinh trực khuẩn, nơi mà chúng tôi bổ sung cùng một lượng nguyên liệu hàng ngày và mỗi ngày chúng tôi đưa vào và về cơ bản chúng tôi thu hoạch từng phần floc từ bể và những phần này được thêm vào nước đã khử trùng của trại giống.”

“Ban đầu, những người quản lý trại giống đã bị sốc khi bạn muốn thêm vào nước bị nhiễm bẩn này vì loại nước này có chứa vi khuẩn và tảo cát (tảo silic) và giáp xác chân hai loại (amphipods), nó không phải là nước 'được khử trùng', nhưng kết quả của quá trình này là nước có chứa thêm nước qua xử lý [được thêm vào nước] vẫn sạch sẽ. Chúng không hình thành các màng sinh học trong bể như nước được khử trùng thông thường đã hình thành. Và kết quả là tỷ lệ sống sót của tôm của chúng tôi tăng 10% và kích thước tôm tăng lên, điêu này có nghĩa là chúng là những động vật khỏe mạnh hơn. Vì vậy, sau một tháng thực hiện như vậy, trại giống được thuyết phục bởi ý tưởng rằng: đúng vậy, chúng tôi khử trùng nước và loại bỏ các mầm bệnh cụ thể để đảm bảo không có EHP, không có vi khuẩn EMS, đảm bảo không có mầm bệnh cụ thể và sau đó chúng tôi làm bẩn nước trở lại bằng nước đã qua xử lý.

“Để bắt đầu một bể nước qua xử lý như thế này phải mất từ 3-4 tuần, vì vậy khi chúng tôi đã bắt đầu, chúng tôi thu hoạch từng phần mỗi ngày để bổ sung thêm chất dinh dưỡng rồi sau đó tiếp tục thu hoạch và đưa floc đã qua xử lý đó vào nước đã được khử trùng trong trại giống và điều này thực sự đã làm ổn định trại giống mà tại đó đã từng ở trong tình trạng kém ổn định hơn,” ông cho biết thêm.

Các trại sản xuất giống Homegrown chỉ được thiết kế để vận hành bởi hai người mà thôi, để cắt giảm chi phí lao động ở Mỹ và Châu Âu, đầu tiên có hai khu vực Homegrown có ý định sẽ được thành lập.


Ưu điểm và nhược điểm của việc gắn thẻ cá nuôi Ưu điểm và nhược điểm của việc gắn… Trang trại cá ngoài khơi kiểu mới tiến gần hơn tới thương mại thực tế Trang trại cá ngoài khơi kiểu mới tiến…