Tin thủy sản Thức ăn tươi sống có thể cách mạng hóa ngành nuôi cá mú

Thức ăn tươi sống có thể cách mạng hóa ngành nuôi cá mú

Tác giả 2LUA.VN biên dịch, ngày đăng 05/02/2021

Thức ăn tươi sống có thể cách mạng hóa ngành nuôi cá mú

Sự tăng trưởng của nghề nuôi cá mú đã bị kìm hãm bởi những khó khăn trải qua trong giai đoạn ương ấu trùng. Tuy nhiên, theo CFEED, việc sử dụng giáp xác chân chèo ở giai đoạn cho ăn đầu tiên đang dẫn đến những cải thiện rõ rệt trong sản xuất.

Cá mú đang trở thành một loài nuôi trồng thủy sản phổ biến hơn trên khắp châu Á

Cá mú được đánh giá cao ở khắp châu Á và theo truyền thống thường được đánh bắt bằng lưới, bẫy và móc mồi, nhưng việc đánh bắt quá mức đã dẫn đến sự suy giảm nguồn cung hoang dã trên toàn thế giới. Kết quả là, trong thập kỷ qua, đã có một nỗ lực phối hợp nhằm phát triển các phương tiện nuôi cá mú - vừa giúp giảm bớt áp lực đối với trữ lượng tự nhiên, vừa cung cấp số lượng thường xuyên cá chất lượng cao cho thị trường (Frisch, Cameron, Williamson, & Williams, 2016) (Rimmer & Glamuzina, 2019).

Một trong những hạn chế chính hạn chế sự tăng trưởng của ngành nuôi cá mú là thiếu cá giống chất lượng cao. Vấn đề này là do hai vấn đề chính - nguồn trứng chất lượng tốt còn hạn chế và kích thước ấu trùng cá mú mới nở cực kỳ nhỏ. Những tiến bộ gần đây về kỹ thuật bảo quản lạnh để lưu trữ tinh trùng cá mú cọp ở Việt Nam có thể giúp giải quyết vấn đề đầu tiên. Đối với vấn đề thứ hai, kích thước nhỏ khiến ấu trùng cá mú trở nên mỏng manh và cần những con mồi sống nhỏ có giá trị dinh dưỡng đầy đủ.

Trường hợp luân trùng giảm

Mặc dù việc cho cá ăn luân trùng trong thời kỳ ấu trùng đầu tiên hiện nay đã cho phép nuôi nhiều loài cá mú khác nhau, nhưng tỷ lệ sống thường thấp và tốc độ tăng trưởng và chất lượng của ấu trùng khác nhau. Để đảm bảo luân trùng có thành phần dinh dưỡng đầy đủ là điều không đơn giản - chúng thường thiếu các chất dinh dưỡng quan trọng như taurine, vitamin A, Iốt và các axit béo như DHA và EPA. Do đó, tìm kiếm các giải pháp thay thế nguồn cấp dữ liệu đã được ưu tiên.

Hình ảnh ấu trùng cá mú cọp chín ngày tuổi (E. fuscoguttatus) từ trại sản xuất giống ở Thái Lan. Con bên trái được cho ăn giáp xác chân chèo Acartia amidan cùng với luân trùng, trong khi chỉ có luân trùng được cho ăn ở bên phải. Các hình ảnh được chụp ở cùng một độ phóng đại. Ảnh: CFEED

Trước tình hình đó, một số nghiên cứu đã xuất hiện cho thấy tiềm năng được cung cấp bởi việc ứng dụng động vật chân đốt làm thức ăn cho cá mú ấu trùng. Đối với ấu trùng cá mú chấm ( Plectropomus leopardus ), tỷ lệ sống tăng gấp 10 lần, ngoài việc phát triển nhanh hơn, đã được quan sát thấy (Burgess, Callan, Touse, & Santos, 2019) (Melianawati, Astuni, & Suwirya, 2013). Bổ sung giáp xác chân chèo vào chế độ ăn cũng làm tăng gấp bốn lần tỷ lệ sống của cá mú cọp ( Epinephelus fuscoguttatus ) (Rimmer, et al ., 2011). Ngoài ra, các thông số tăng trưởng như tổng chiều dài, chiều sâu cơ thể và chiều dài gai lưng và xương sống đều bị ảnh hưởng tích cực, tất cả đều tạo ra ấu trùng mạnh mẽ hơn.

Thiết lập các đơn vị sản xuất cá chân vịt không phải là một lựa chọn cho hầu hết các trại giống

Bất chấp những kết quả này, việc thiết lập các đơn vị sản xuất cá chân đen không phải là một lựa chọn cho hầu hết các trại giống, vì chúng đòi hỏi nhiều công việc và không phải lúc nào cũng tạo ra nguồn cung cấp ổn định. Tuy nhiên, do các công ty như CFEED * hiện đang cung cấp cho thị trường châu Á, nên trứng cá đối có thể được lấy và ấp theo yêu cầu theo cách tương tự như trứng Artemia . Những con cá mó đuôi dài mới nở có chiều dài chỉ dưới 100 µm, là kích thước lý tưởng cho ấu trùng cá mú non. Điều này đã dẫn đến một số trại giống thương mại bắt đầu đưa động vật chân đầu vào thức ăn của họ. Một trong số đó, Eco Aquatology Asia ở Thái Lan, báo cáo rằng việc bao gồm các loài giáp xác chân chèo trong thức ăn cho trại giống của họ đã dẫn đến việc sản xuất cá con mạnh hơn và phát triển nhanh hơn., cuối cùng là giúp tăng mức sản xuất của họ.

Lợi ích dinh dưỡng của giáp xác chân chèo

Một lợi ích từ việc cho ăn giáp xác chân chèo là khả năng kích thích hoạt động của enzym trong ruột của ấu trùng cá mú. Đối với cá mú cọp, sự gia tăng đáng kể trong phản ứng với enzym (protease) đã được chứng minh khi bổ sung nauplii trong khẩu phần ăn, làm tăng hoạt tính của enzym lên 25,8% so với thức ăn sống truyền thống như luân trùng và Artemia (Rimmer, et al ., 2011). Ngay cả việc bổ sung một tỷ lệ nhỏ các giáp xác chân chèo cũng đủ để kích thích sự gia tăng này. Một kết quả tương tự cũng được thấy đối với ấu trùng cá mú đỏ , trong đó việc bao gồm cả một phần và một phần của giáp xác chân chèo đều làm tăng đáng kể hoạt động của các enzym tiêu hóa protease, amylase và lipase (Melianawati, Pratiwi, Puniawati, & Astuti, 2015).

Phản ứng của enzym (protease) đối với việc bổ sung các loài chân chèo trong khẩu phần ăn cho cá mú cọp sớm (E. fuscoguttatus). Các con giáp xác chân chèo được thêm vào ở mật độ nhất định như một lần bổ sung duy nhất vào hai ngày sau khi nở. Không bổ sung thêm giáp xác chân chèo, nhưng luân trùng được bổ sung hàng ngày để duy trì mật độ thức ăn sống. Ảnh: Rimmer, và cộng sự, 2011

Một yếu tố khác được coi là quan trọng đối với ấu trùng cá mú là thành phần axit béo của con mồi sống. Ngoài ARA và EPA, axit béo DHA đã được xác định là có tầm quan trọng thiết yếu đối với ấu trùng cá mú cọp (Rimmer, et al ., 2011). Khi bị bỏ đói, ấu trùng bảo tồn chất này ở mức độ cao hơn so với các axit béo khác, cho thấy nó cần thiết như thế nào đối với sự tăng trưởng và phát triển ban đầu của ấu trùng.

Điều này có thể cung cấp một lý do khác tại sao giáp xác chân chèo thúc đẩy sự sống sót, tăng trưởng và phát triển của ấu trùng cá mú, vì chúng tự nhiên chứa mức độ cao của các axit béo này, thường đạt trên 25% tổng hàm lượng lipid (van der Meeren, Olsen, Hamre, & Fyhn, 2008). Chúng cũng được biết là có hàm lượng cao tự nhiên của taurine, astaxanthin, vitamin C và i-ốt, và chứa 60-70% protein.

Các nauplii mới nở của Acartia amida có chiều dài gần 100 µm, khiến chúng hoàn hảo để làm thức ăn cho ấu trùng của hầu hết các loài cá mú. Ảnh: CFEED

Trong tự nhiên, động vật phù du được coi là nhóm động vật phù du quan trọng nhất, tạo thành một liên kết quan trọng giữa sản xuất sơ cấp và ấu trùng cá. Các nghiên cứu về hàm lượng ruột trong ấu trùng của các loài cá nhiệt đới ven biển cho thấy rằng phần lớn dựa vào các loài chân chèo làm nguồn thức ăn chính của chúng (Sampey, Mckinnon, Meekan, & Mccormick, 2007).

Cung cấp một cách để các nhà sản xuất cá cung cấp cho ấu trùng cá của họ chế độ ăn mà họ thích trong tự nhiên là một trong những mục tiêu của công ty CFEED có trụ sở tại Na Uy. Với việc sản xuất trong nhà, an toàn về mặt sinh học đối với loài giáp xác chân chèo Acartia amidan , chúng có thể cung cấp nguồn trứng thương mại ổn định cho các trại giống trên khắp thế giới. Những quả trứng này có thể được nở theo yêu cầu, cung cấp một lựa chọn thức ăn sống cân bằng dinh dưỡng cho ấu trùng cá. Kích thước nhỏ của nauplii mới nở khiến chúng trở thành thức ăn lý tưởng trong giai đoạn nhạy cảm nhất đối với ấu trùng cá mú. Kết hợp với thành phần dinh dưỡng lý tưởng để cho ăn lần đầu, giải pháp dễ dàng đưa giáp xác chân chèo vào nuôi thương phẩm cá mú thương phẩm có thể cải thiện đáng kể năng suất của các trại giống trong tương lai .


High-five - phát triển “hệ thống nuôi trồng thủy sản thẳng đứng đầu tiên trên thế giới” High-five - phát triển “hệ thống nuôi trồng… Liệu viễn thám có thể giúp ngành chăn nuôi tôm đáp ứng những cam kết bền vững hay không? Liệu viễn thám có thể giúp ngành chăn…