Nuôi bò Một số bệnh sinh sản trong chăn nuôi bò sữa

Một số bệnh sinh sản trong chăn nuôi bò sữa

Tác giả Th.s Võ Ngọc Anh, ngày đăng 19/02/2016

1. Chậm sinh và vô sinh:

Đó là trường hợp bò cái đến tuổi thành thục (14 tháng tuổi trở lên) mà không thấy động dục hoặc không thể phối giống; hoặc có động dục, phối giống đúng thời điểm nhưng không thụ thai.

Bò cái sau khi sanh 3-5 tháng mà không lên giống hoặc có lên giống nhưng phối giống nhiều lần không đậu thai.

1.1. Đối với bò cái tơ:

Nguyên nhân có thể là do bộ máy sinh dục phát triển không bình thường (buồng trứng, tử cung kém phát triển, có khối u trên buồng trứng…), có thể do viêm nhiễm đường sinh dục (âm đạo, tử cung…) hoặc do chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc không tốt bò còi cọc như thiếu khoáng: Photpho, Selenium, đồng, Vitamin A…

Để xử lý cần tìm hiểu tình trạng chăm sóc, nuôi dưỡng nếu tình trạng này xảy ra ở một số cá thể thì có thể là do những bất thường ở bộ máy sinh dục, còn nếu có nhiều cá thể mắc phải (trên 50 % số bò cái sinh sản trong trại), thì cần lưu ý đến các yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng, chuồng trại hoặc bệnh truyền nhiễm.

1.2. Đối với bò cái đã trưởng thành:

Trước hết lưu ý đến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, vì nhiều hộ chú trọng đến việc khai thác sữa mà không cung cấp dinh dưỡng đủ, cân đối cho việc hồi phục hoặc không cung cấp đủ dinh dưỡng trong thời kỳ cạn sữa do tâm lý sai lầm là "sợ cho bò ăn cám hỗn hợp trong giai đoạn cạn sữa sẽ làm thai to, bò đẻ khó", bò cái ít được vận động.

Một sai lầm khác là nông dân cung cấp quá nhiều thức ăn tinh, hèm bia, xác mì, tỷ lệ thức ăn tinh trên thô không phù hợp trong quá trình chăn nuôi.

Cũng có thể do các viêm nhiễm từ lần sinh sản trước (viêm tử cung, viêm âm đạo...) mà không được điều trị triệt để.

Để xử lý trước hết người chăn nuôi cần kiểm tra và điều chỉnh quá trình chăn nuôi của mình, nhờ nhân viên thú y kiểm tra đường sinh dục của bò để có quyết định điều trị phù hợp (viêm đường sinh dục, tồn lưu thể vàng, u nang buồng trứng…)

Cần lưu ý là việc phát hiện chính xác thời điểm lên giống để phối giống đúng lúc góp phần quan trọng vào kết quả đậu thai nên người chăn nuôi cần ghi chép vào sổ sách các thời điểm như ngày sanh, ngày lên giống kỳ trước, tình trạng bệnh sau khi sanh (viêm tử cung, viêm âm đạo, viêm vú…), dự đoán ngày lên giống (sau khi sanh 45- 60 ngày) để tập trung quan sát (nhất là vào ban đêm) báo cho dẫn tinh viên kịp thời phối giống.

2. Viêm vú (Mastitis):

Đây là loại bệnh phổ biến trên bò sữa, dễ lây lan và gây thiệt hại về kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa.

Bệnh gây ra do vệ sinh chuồng trại, vệ sinh vắt sữa không tốt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn (như liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, song cầu khuẩn hay trực khuẩn gây mủ) hay nấm Candida albicals xâm nhập vào bầu vú và gây bệnh.

Bệnh viêm vú thường có hai thể: Viêm vú lâm sàng và viêm vú tiềm ẩn.

2.1. Viêm vú lâm sàng:

Tình trạng viêm vú có thể xãy ra ở 1, 2 hoặc cả 4 thùy vú, có thể ở các thể sau:

2.1.1. Viêm vú thể tương mạc:

Vú bị sưng ở một thùy hay toàn bộ bầu vú.

Khi ấn mạnh tay vào bầu vú bò bị đau, lượng sữa giảm rõ rệt, sữa loãng và có hạt lổn nhổn.

2.1.2. Viêm vú thể Cata:

Đặc trưng là tế bào thượng bì bị tróc ra, ở những ổ viêm có dịch thấm xuất.

Sữa bị cặn hoặc cục sữa vón do dịch thẩm xuất và bạch cầu.

Thể viêm vú này thường không làm bầu vú bị sưng nhưng làm cho núm vú tăng thể tích (to ra) do biểu bì dầy lên.

2.1.3. Viêm vú có mủ:

Biểu hiện đặc trưng là vú có mủ và dịch thẩm xuất.

Bò sốt cao, mệt mỏi, bỏ ăn; bầu vú bị sưng đỏ, nóng và đau.

Đầu tiên sữa loãng có màu hồng do xuất huyết nhẹ và sau đó có lẫn các cục sữa vón và dịch mủ màu vàng nhạt.

2.1.4. Viêm vú có máu:

Biểu hiện đặc trưng là các tổ chức của tuyến tiết sữa bị xuất huyết và tụ huyết.

Bệnh thường ở thể cấp tính như bò sốt cao, kém ăn, mệt mỏi, bầu vú sưng to có những đám tụ huyết.

Lượng sữa giảm nhanh có khi ngừng tiết sữa.

Sữa loãng có màu hồng hoặc đôi khi đỏ như máu do xuất huyết.

Bò có thể nhiễm trùng huyết và chết sau 7-9 ngày.

2.2. Thể viêm vú tiềm ẩn:

Viêm vú thể tiềm ẩn rất phổ biến và gây những thiệt hại kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa.

Bệnh này nguy hiểm ở chỗ là bò mắc bệnh không có những biểu hiện để người chăn nuôi có thể quan sát được mà muốn phát hiện bệnh phải thực hiện các test kiểm tra trên sữa.

Do vậy, mầm bệnh tồn tại lây lan cho những bò khác mà người chăn nuôi vẫn không hề hay biết.

Theo một số chuyên gia tình trạng viêm vú tiềm ẩn có thể gây giảm lượng sữa đến 20%, làm tổn thương lâu dài các tế bào, mô tiết sữa mà người chăn nuôi hoàn toàn không hề biết.

Bò ít có triệu chứng bên ngoài, nhưng thường thì kém ăn, thỉnh thoảng sữa bị tủa và không có biểu hiện triệu chứng ở bầu vú.

Để phát hiện viêm vú tiềm ẩn cần dựa vào dấu hiệu của sữa và xét nghiệm sữa.

Hiện nay có thể dùng test CMT mà thao tác thực hiện không phức tạp người chăn nuôi có thể tự kiểm tra.

Phòng bệnh viêm vú trước hết phải làm tốt khâu vệ sinh chuồng trại chăn nuôi, vệ sinh vắt sữa (dụng cụ, nơi vắt sữa, cơ thể bị, bầu vú, núm vú, tay người vắt sữa).

Tốt nhất người chăn nuôi không sử dụng “người vắt sữa thuê”.â Cho bò ăn cám hỗn hợp ngay sau khi vắt sữa để bò không nằm xuống sàn khi vắt sữa xong.

Kiểm tra định kỳ, cách ly và điều trị triệt để khi bò mắc bệnh.

3. Viêm tử cung:

Bệnh do nhiễm khuẩn khi gieo tinh nhân tạo hoặc do bò đực bị viêm cơ quan sinh dục.

Viêm tử cung còn do vệ sinh khi đẻ không tốt (chuồng trại bẩn, can thiệp của người chăn nuôi…).

Bệnh viêm tử cung còn do kế phát của bệnh viêm âm đạo và viêm phúc mạc.

Khi các vi khuẩn xâm nhập vào tử cung, phát triển nhanh và gây viêm xung huyết, có mủ, gây tróc niêm mạc, xuất huyết.

Khi mắc bệnh, bò luôn mệt mỏi, ăn ít, sốt cao, đau vùng hông (bò luôn luôn quay đầu lại phía sau, đi lại bồn chồn).

Vài ngày sau, âm hộ chảy dịch nhầy tanh, có lẫn máu, mủ.

Thông thường khi bò mắc bệnh viêm tử cung thì thường mắc bệnh viêm âm đạo và ngược lại.

3.1. Bệnh viêm âm đạo:

Nguyên nhân gây bệnh cũng giống như bệnh viêm tử cung và thường hai bệnh này xảy ra cùng lúc.

Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào âm đạo và phát triển trên niêm mạc âm đạo và gây viêm.

Bò có triệu chứng giống như viêm tử cung.

Tuy nhiên, khi dùng kềm mỏ vịt để khám thì thấy những đám tụ huyết, xuất huyết, loét… Khi bò bệnh thì báo cho cán bộ thú y đến khám và điều trị.

3.2. Sót nhau:

Sau khi đẻ, nhau thai sẽ được tống ra trong vòng 8-12giờ.

Nếu nhau không ra sau 18 giờ, ta gọi là sót nhau.

Nguyên nhân của hiện tượng sót nhau là do bất thường của tử cung; bò gầy yếu, nuôi dưỡng kém bò đẻ khó, đẻ sinh đôi thời gian đẻ kéo dài nên lực co bóp của tử cung yếu không đẩy nhau ra.

Thông thường bò sót nhau sẽ ăn kém, sốt, nhưng đôi khi không có biểu hiện gì, vẫn ăn bình thường.

Tỉ lệ sót nhau thường chiếm khỏang 5-15% số bò sinh sản trong đàn, nếu tỉ lệ này lớn hơn thì vấn đề nuôi dưỡng chăm sóc đàn bò cái sinh sản chưa tốt.

Khi bò sót nhau, cần gọi cán bộ thú y đến xử ly,ù không tự tiện xử lý sẽ gây nên những tổn thương trên tử cung và từ đó ảnh hưởng đến sự sinh sản của bò sau này (giảm tỉ lệ thụ thai).


Có thể bạn quan tâm

mot-so-roi-loan-sinh-san-thuong-gap-o-bo Một số rối loạn sinh… thuoc-nam-chua-hoi-chung-thap-khop-cua-gia-suc Thuốc nam chữa hội chứng…