Người nông dân kiếm nhiều tiền hơn trong việc chăn nuôi cá da trơn như thế nào? - Phần 2
Mức độ thành công mà chúng ta đạt được trong việc chăn nuôi cá da trơn thường được gắn liền với trình độ thực hành quản lý mà chúng ta quyết định áp dụng kết hợp với mức độ hiệu quả mà chúng ta đạt được từ các hệ thống chăn nuôi của mình, Lanre Ogunsina viết trong Phần 1 của Fish Unlimited. Phần 2 và phần 3 tiếp tục xem xét lý do tại sao việc tiêu thụ nhiều thức ăn hơn không phải lúc nào cũng mang lại kết quả cá lớn hơn và những người nông dân phải nắm vững nghệ thuật chăn nuôi cá như thế nào.
Tôi trấn tĩnh anh nông dân B và cho anh ta xem bảng ghi chép cho ăn của anh nông dân A. Cả hai chúng tôi cùng ngồi xuống và so sánh hai bảng ghi chép.
Trong tháng thứ nhất, đàn cá của anh nông dân A tiêu thụ 101kg thức ăn trong khi cá của anh ta chỉ tiêu thụ 87kg thức ăn mà thôi.
Đến tháng thứ 2, cá của anh ta tiêu thụ 292kg thức ăn trong khi đó cá của anh nông dân A tiêu thụ 298kg.
Đến tháng thứ 3, lượng thức ăn mà đàn cá của anh tiêu thụ là 617kg so với lượng thức ăn mà đàn cá của anh nông dân A tiêu thụ là 540kg.
Cũng từ hai bảng ghi chép, cả hai chúng tôi đều nhìn thấy rằng vào cuối tháng đầu tiên, cá của anh nông dân A có trọng lượng trung bình là 86g trong khi cá của anh ấy chỉ nặng trung bình 51g.
Vào cuối tháng thứ 2, trọng lượng cá trung bình của anh là 173g trong khi của anh nông dân A là 245g.
Khi anh nông dân A vui mừng vào cuối tháng thứ 3 vì cá của anh ta có trọng lượng trung bình là 520g, thì cá của anh nông dân B chỉ nặng trung bình 408g.
Đến tháng thứ 4, cá của anh nông dân A chỉ còn thiếu 10g nữa là nặng trung bình 1kg trong khi đó cá của anh nông dân B có trọng lượng trung bình là 883g.
Thức ăn tích lũy mà dàn cá của anh nông dân A tiêu thụ từ tháng 1 đến tháng 4 là 1833kg trong khi đó đàn cá của anh nông dân B đã tiêu thụ tổng cộng từ tháng 1 đến tháng 4 là 2245kg thức ăn.
Vấn đề là từ vẻ mặt của anh nông dân B khiến tôi không biết liệu tôi có đang làm điều gì không phải hay không?
Đàn cá của anh không chỉ tiêu thụ nhiều thức ăn hơn mà trọng lượng còn thấp hơn.
Tôi tiếp tục giải thích cho anh ta rằng động lực kiếm ăn của cá trê châu Phi trong ao rất thú vị. Chúng thích thể hiện các hành vi tranh giành lãnh thổ; đặc biệt là khi chúng không được thả ở mật độ dày đặc.
Những đặc điểm tranh giành lãnh thổ này càng được khuếch đại trong hành vi của chúng khi có một số con cá lớn hơn những con còn lại trong đàn. Những con lớn hơn không chỉ thường lấy thức ăn trước mà đôi khi chúng còn ngăn cản những con nhỏ hơn kiếm ăn.
Một số cá giống được gọi là cá nhảy vọt hoặc cá đi săn phát triển với tốc độ cấp số nhân trong khi những con cá giống khác phát triển với tốc độ cấp số cộng.
Đối với người sản xuất cá giống đủ tận tụy, điều tốt nhất nên làm là loại bỏ những con cá đi săn một cách cẩn thận và cung cấp cho người chăn nuôi những con cá có cùng kích cỡ.
Cá trê châu Phi có thể ăn tối đa từ 3 đến 5% trọng lượng cơ thể của chúng trong nước ao nuôi là được.
Anh nông dân A cho cá ăn khoảng 2.5 đến 3% trọng lượng cơ thể của chúng trong khoảng thời gian 4 tháng.
Phần 3
Sau khi tôi chia sẻ loạt thông tin này với anh nông dân B thì anh ấy trở nên bình tĩnh như tôi dự đoán. Rõ ràng là có rất nhiều điều anh ấy đã làm không đúng.
Anh ta có tiền để cho cá ăn khá ổn nhưng lượng thức ăn mà anh ta đã sử dụng nhiều hơn những gì anh ta đáng lẽ nên sử dụng.
Cũng có thể thấy rõ rằng cá của anh nông dân A đã biểu hiện tốt hơn trong việc tăng trọng và chuyển hóa thức ăn.
Tôi kiểm tra đồng hồ đeo tay và đã đến giờ tôi cho cá trong bể ăn. Tôi mời anh nông dân B vào vườn ươm cá da trơn của tôi và khuyến khích anh ta quan sát cá bên trong các bể ương. Tôi đang sử dụng các bể màu xanh bằng nhựa có dung tích 12,00 lít để nuôi cá trê châu Phi con.
Khi tôi cho cá giống 6 tuần tuổi ăn, anh nông dân B càng tò mò hơn. Anh ta nhanh chóng nhận thấy rằng tôi giữ các bể thả nuôi ở mật độ cao nhất. Anh ta hỏi tôi tại sao và tôi nói với anh ta đó là do bản chất kiếm ăn của cá. Cá da trơn ăn nhiều hơn trong một quần thể thả giống mà kích thích sự cạnh tranh.
Khi tôi tiếp tục cho cá ăn, tôi nói với anh ấy rằng có rất nhiều điều chúng ta cần phải hiểu một cách chân thật là những người nuôi cá bận tâm về thói quen ăn uống của các sinh vật. Từ kinh nghiệm của riêng tôi (lấy gợi ý từ cá trê châu Phi), mọi sinh vật đều có xu hướng muốn ăn nhiều hơn hầu như trong bầu không khí của sự cạnh tranh.
Lý do rất đơn giản là có rất nhiều cái miệng đói đang chờ để ngấu nghiến bất cứ thứ gì còn sót lại chưa được ăn.
Là những người chăn nuôi cá, lĩnh vực kinh doanh của chúng tôi thâm trầm, năng động và sáng tạo. Nghề nuôi cá có một phần khoa học và cũng có một phần nghệ thuật.
Một phần của những gì mà phần khoa học thực hiện là cung cấp cho chúng ta kiến thức về những việc phải làm khi các biến số khác nhau của hóa học nước trong ao nước thay đổi.
Nước ao sẽ thay đổi khi cho ăn quá mức hoặc quản lý không tốt. Nồng độ oxy hòa tan trong nước sụt giảm khi hàm lượng nitrat và nitrit trong nước tăng lên.
Phần khoa học cung cấp cho người nông dân trung bình cái nhìn sâu sắc về việc phải làm gì khi nước ao trở nên hôi thối và không được thay nước thường xuyên như bình thường.
Tuy nhiên, phần nghệ thuật được phát triển bởi người nông dân nhạy bén theo thời gian. Một người nông dân nhạy bén có thể biết kích thước của con cá cũng như trọng lượng ước tính của con cá bằng cách chỉ cần nhìn vào kích thước miệng của con cá. Phần nghệ thuật mang đến cho người nông dân cái nhìn sâu sắc về cuộc sống chưa được khám phá của loài cá.
Một người nông dân thông thái luôn chú ý đến những thay đổi mỗi khi anh ta đến trang trại của mình.
Sự hiện diện bất thường của nhiều bọt khí trên bề mặt ao cho người nông dân khôn ngoan thấy rằng có điều gì đó không ổn. Hiện tượng sủi bọt khí quá mức biểu thị có hàm lượng các chất khí bên trong nước ao.
Rõ ràng là anh nông dân A đã nắm vững phần khoa học và nghệ thuật của việc nuôi cá. Phần nghệ thuật khuyến khích sự phát triển của khứu giác và thị giác của người nông dân. Người chăn nuôi có thể ngửi thấy bất kỳ dạng hôi thối nào trong ao. Anh ta cũng có thể chủ động đoán được liệu có điều gì bất thường hay không bằng cách chỉ nhìn vào màu nước ao.
Theo thời gian, người chăn nuôi sẽ có thể xác định tổng lượng thức ăn mà anh ta nên cung cấp cho cá của mình mỗi ngày mỗi tháng trong suốt chu kỳ chăn nuôi.
Hầu hết những người nuôi cá vẫn có thói quen đoán số lượng thức ăn mà họ nên cho cá ăn. Trong các trang trại lớn có nhiều ao và nhiều nhân công thì xảy ra rất nhiều lỗi do con người tạo ra.
Trong khi một công nhân tin rằng cá trong các ao sẽ no nê với 136 kg thức ăn cho 2500 con cá vào buổi sáng ngày 10, thì một công nhân khác có thể tin rằng 136 kg thức ăn thì thấp hơn mức mà cá tiêu thụ đến khi cảm thấy no.
Do đó, điều quan trọng là các tiêu chuẩn cho ăn đúng cách phải được áp dụng cho cá trong mỗi ao. Anh nông dân A dường như đã thành thạo một chiến lược cho ăn đúng đắn mà nó thực sự hiệu quả đối với anh ta.
Tôi nói với anh nông dân B rằng anh ta không nên ngần ngại khi hỏi anh nông dân A về kỹ thuật mà anh ấy dường như đã sở hữu bí quyết cho cá ăn hiệu quả.
Anh nông dân B suy nghĩ một lúc. Tôi khuyến khích anh ấy rằng sẽ không phải là một ý kiến tồi nếu cả hai chúng ta cùng đến gặp anh nông dân A vào ngày mai và chia sẻ bí quyết nuôi cá của anh ấy.
Ngay bên trong trại giống của mình, tôi đã gọi cho anh nông dân A và tôi đã nói với anh ấy rằng chúng tôi sẽ rất vui nếu như anh ấy có thể cho chúng tôi biết những gì anh ấy biết về bí quyết cho cá ăn và phương pháp quản lý. Anh nông dân A rất vui vẻ và anh ấy nói rằng anh ấy sẽ cho tôi biết thời gian anh ấy đến trang trại vào ngày mai.
Có thể bạn quan tâm
Phần mềm
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao hồ