Tin thủy sản Trường hợp cải thiện an toàn sinh học tại các trang trại chăn nuôi cá da trơn Việt Nam

Trường hợp cải thiện an toàn sinh học tại các trang trại chăn nuôi cá da trơn Việt Nam

Tác giả 2LUA.VN biên dịch, ngày đăng 04/09/2020

Một trường hợp nghiên cứu khám phá sự phổ biến của các loại sán lá truyền vào từ thực phẩm Cá da trơn nuôi cho thấy rằng việc duy trì các giao thức an toàn sinh học nghiêm ngặt trong quá trình chăn nuôi có thể tăng cường các kỹ thuật quản lý hiện có, đưa các trường hợp nhiễm bệnh gần như bằng không.

Cá da trơn là một trong những mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính của Việt Nam

Nghiên cứu được công bố trên Báo cáo Nuôi trồng thủy sản chỉ ra rằng các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt hơn trong suốt quá trình chăn nuôi có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng sán lá truyền qua thực phẩm Cá da trơn.

Nghiên cứu đã so sánh các trường hợp nhiễm sán lá giữa ba trang trại Cá da trơn thâm canh gần thành phố Hồ Chí Minh trong cả mùa mưa lẫn mùa khô. Các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy các đột biến khi bị nhiễm trùng vào mùa mưa, mặc dù con số nhiễm trùng là thấp trên cả ba trang trại. Điều này cho thấy các kỹ thuật quản lý hiện có có thể làm giảm nguy cơ nhiễm ký sinh trùng.

Mặc dù tỷ lệ lây nhiễm thấp nhưng nhóm nghiên cứu lưu ý rằng môi trường trang trại dễ bị nhiễm bẩn từ các nguồn bên ngoài. Trong một số trường hợp, ao cá có thể tiếp xúc với dòng chảy bị ô nhiễm hoặc động vật mang trứng và ấu trùng sán lá. Điều này cho thấy các giao thức an toàn sinh học được cải thiện mà ngăn chặn được loại phơi nhiễm này có thể khiến bệnh nhiễm trùng sán lá gần bằng không.

Bối cảnh

Cá da trơn là nền tảng sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế xuất khẩu và nội địa. Mặc dù có vị trí mạnh mẽ này nhưng ngành công nghiệp phải đối mặt với những thách thức sản xuất nặng nề, đặc biệt là thách thức từ nhiễm ký sinh trùng.

Đông Nam Á đang gặp phải vấn đề sán lá truyền bệnh từ thực phẩm (FZT), một nhóm giun dẹp ký sinh mà có thể lây nhiễm cho người nếu người đó ăn phải thức ăn bị nhiễm ấu trùng hay ký sinh trùng. WHO ước tính rằng có 18 triệu người ở châu Á hiện đang bị nhiễm FZT. Mặc dù các nhà sản xuất Cá da trơn ở Việt Nam làm hết sức để ngăn chặn ký sinh trùng tại vịnh nhưng nguy cơ mắc phải FZT từ Cá da trơn tự nhiên và Cá da trơn nuôi vẫn còn cao.

Các loài FZT phổ biến nhất được thấy ở Cá da trơn Việt Nam là các loài dị hình như Haplorchis pumilio, H taichui và Centrocestus formosanus. Để giữ giun dẹp ký sinh hoặc "giun sán" tại vịnh thì các nhà sản xuất thường cố gắng loại bỏ ốc sên thủy sinh từ các ao thả Cá da trơn. Do giun sán phụ thuộc vào ốc sên thủy sinh làm vật chủ trung gian cho nên việc loại bỏ ốc sên có nghĩa là giun sán sẽ không thể ký sinh trên cá hoặc tồn tại trong cơ thể người.

Nghiên cứu

Các nhà nghiên cứu đã xác định ba trang trại chăn nuôi Cá da trơn thâm canh ở các huyện ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh. Địa điểm đầu tiên chuyên về Cá da trơn lai (Clarias sp), trang trại thứ hai nuôi Cá da trơn sông (Pangasianodon hypopththmusmus) và trang trại thứ ba nuôi Cá da trơn đốm đen (Pangasius larnaudii).

Cá da trơn thường được nuôi trong các ao ngoài trời

Để kiểm tra tỷ lệ và sự lây lan của nhiễm trùng FZT thì các nhà nghiên cứu đã cho các trang trại thoát nước, rãi vôi và làm khô ao của họ trước khi thả một mẻ cá giống mới. Việc này đã khử trùng ao và giết chết bất kỳ con cá tạp hay ốc sên nào trong môi trường xung quanh. Quá trình này được lặp lại trong cả mùa mưa lẫn mùa khô trước giai đoạn phát triển của cá (grow-out). Ở các khoảng thời gian lấy mẫu khác nhau, 10 con cá được chọn ngẫu nhiên và được kiểm tra giun sán ký sinh.

Kết quả ban đầu

Trong quá trình phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu đã theo dõi mức độ nhiễm giun sán trên ba loài Cá da trơn và so sánh tỷ lệ nhiễm giữa mùa mưa và mùa khô.

Chỉ có một loại FZT H pumilio được ghi nhận ở Cá da trơn. Tỷ lệ nhiễm ở trang trại là cao nhất đối với Cá da trơn đốm đen (20%), tiếp theo là Cá da trơn lai (16,7%). Tỷ lệ nhiễm FZT thấp nhất được thấy ở Cá da trơn sông (5%).

Trong số 550 con cá được lấy mẫu mỗi mùa thì tỷ lệ nhiễm FZT trên tất cả các trang trại đều ở mức thấp trong những tháng mùa khô (0.2%). Tuy nhiên, con số nhiễm trùng đã tăng lên trong mùa mưa (1.5%), cho thấy mối liên hệ giữa khí hậu tổng quan và tỷ lệ nhiễm FZT.

Tầm quan trọng của an toàn sinh học

Khi so sánh tỷ lệ nhiễm FZT giữa Cá da trơn nuôi và Cá da trơn tự nhiên từ đồng bằng sông Cửu Long thì các nhà nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ lưu nhiễm ở cá nuôi thấp hơn. Điều này cho thấy rằng các nhà sản xuất Cá da trơn có thể kiểm soát hiệu quả quần thể ốc sên trong các ao chăn nuôi của họ.

Mặc dù tỷ lệ nhiễm nhìn chung trên các trang trại là thấp nhưng các đợt dịch cho thấy các biện pháp an toàn sinh học bổ sung cần đi kèm với các nỗ lực kiểm soát. Lượng mưa duy trì từ tháng 5 đến tháng 10 đã tạo điều kiện tối ưu cho ốc sên thủy sinh (sự gia tăng nhiễm trùng không phải là điều rất đỗi đáng ngạc nhiên). Tuy nhiên, vì tất cả các ao thực hiện nghiên cứu đã được thoát nước, rãi vôi và làm cho khô trước khi thả cá nên các đợt dịch cho thấy nước ao bị nhiễm dòng chảy trên bề mặt có chứa trứng giun sán rồi bắt đầu chu kỳ nhiễm bệnh.

Sự hiện diện của chó mèo cũng nên được đề cập đến. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng thú cưng và động vật đi lạc thường đi khắp khu vực ao nuôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Mèo và chó dễ bị nhiễm sán và có thể thải ký sinh trùng trong phân của chúng.

Các giao thức an toàn sinh học mạnh hơn giữ cho môi trường xung quanh không có giun sán có thể chống lại sự tác động theo mùa của mùa mưa. Điều này cùng với những nỗ lực quản lý liên tục có thể giữ cho các trường hợp nhiễm trùng FZT ở mức thấp, giúp củng cố hơn nữa ngành công nghiệp Cá da trơn của Việt Nam.


Có thể bạn quan tâm

nghien-cuu-ca-vay-tron-chong-lai-nhung-phe-binh-ve-ca-don-ho Nghiên cứu cá vây tròn… ca-hoi-hoang-gia-na-uy-phat-tin-hieu-bao-dong-ve-kha-nang-bung-phat-dich-thieu-mau-ca-hoi Cá hồi Hoàng gia Na…