|
Một trang trại nuôi tôm sử dụng màng chống thấm (bạt lót), lưới găng chim, bờ bao để tăng khả năng ngừa dịch bệnh |
Hiểu được đặc tính của virus gây vấn đề là một yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát nó. Tuy nhiên không có cách nào để biết được khi nào virus tấn công sẽ xuất hiện, nên việc hướng dẫn tại các trang trại nuôi tôm là rất quan trọng.
Thành công hay thất bại trong việc nuôi tôm thường phụ thuộc vào mức độ ngăn ngừa thành công những bộc phát của virus. Hầu hết vị trí các ao nuôi tôm ở Châu Á không có nơi nào không virus, vì thế các cơ sở vật chất phải hoạt động trước sự đe dọa của virus.
An toàn sinh học đã được áp dụng để kiểm soát virus từ lúc giới thiệu tôm thẻ chân trắng tại Châu Á năm 2002. An toàn sinh học bắt đầu với thiết kế ao nuôi có chất lượng và theo sau bởi hoạt động của hệ thống an toàn sinh học. Với thiết kế hợp lý, vận hành và được đào tạo tại chỗ tại các ao nuôi, các vấn đề liên quan đến virus có thể sẽ được giảm thiểu.
Đặc tính virus
Hiểu được đặc tính của virus gây hại chính là một nhân tố quan trọng nhất trong việc điều khiển nó. Trong trường hợp hội chứng virus đốm trắng (WSSV), tàn phá ngành nuôi tôm trong nhiều thập kỷ nay, virus này được biến đến là có thể hoạt động tự do trong nước đến 72 giờ. Nếu nó có thể hoạt động trong tôm vừa chết, và tiềm tàng trong tôm đông lạnh tươi thì WSSV sau đó có thể hoạt động trở lại trong môi trường thuận lợi. Cua trưởng thành và cua trong giai đoạn ấu trùng và động vật giáp xác chính là nơi mang mầm bệnh WSSV. Chim được cho là đã lây lan mầm bệnh bằng cách bắt những con tôm bệnh ra khỏi ao và thả chúng vào những ao và trang trại khác.
Nhìn chung, WSSV tấn công sớm vào giai đoạn nuôi trồng, trước ngày thứ 45 nếu trong nước. Nhân tố môi trường khác đóng vai trò quan trọng chính là thời tiết, đặc biệt là mưa liên tục và lạnh. Ai cũng biết là nếu nhiệt độ dưới 26°C sẽ khiến cho ao nuôi tôm trở nên dễ dàng nhiễm virus bộc phát. Khi điều này xảy ra, một trong những điều quan trọng nhất chính là không để ảnh hưởng đến tôm.
Xây dựng và thiết kế ao nuôi tôm
Thiết kế của ao nuôi tôm cần phải phù hợp với những hoạt động an toàn sinh học. Hệ thống mô đun trong đó nước biển đổ vào được xử lý trong các ao chứa (ao lắng) trước khi sử dụng trong các ao nuôi thương phẩm là một thiết kế hiệu quả nhất. Nước từ một nguồn đến ao nuôi cần được thông qua ít nhất hai ao xử lý trước.
Tất cả nước đưa vào và chảy ra đều cần phải được bảo vệ hoàn toàn khỏi việc rò rỉ. Lót ao bằng polyethylene với mật độ cao hoặc bê tông làm tăng an toàn sinh học. Để ngăn chặn những vật truyền virus xâm nhập vào ao, hàng rào chắn cua và đường ngăn chim cần phải được xem xét. Để đạt được năng suất trong quá trình nuôi, cần có một hệ thống thoát nước trung tâm.
Tôm post và xử lý nước
Trong hoạt động nuôi tôm, chỉ có tôm post (tôm giống) sạch bệnh mới được sử dụng. Mật độ thả giống phải phù hợp với năng lượng đầu vào và kích thước hệ thống để tránh ảnh hưởng đến tôm trong hồ. Đảm bảo rằng chất lượng tôm post được duy trì bằng cách kiểm tra kích thước tiêu chuẩn và mang cũng phát triển.
Hạn chế thay nước nên được áp dụng trong hệ thống nuôi tôm, và chỉ sử dụng nước đã được xử lý. Xử lý nước cần phải bao hàm vật lý, hóa học và phương pháp tiêu diệt mầm virus và những cá thể truyền virus. Tất cả các ao cung cấp nước phải sử dụng túi lọc (180 - 200 micron) để lọc ra các động vật giáp xác, ấu trùng, trứng cá vào ao nuôi.
Để đảm bảo rằng tất cả cá thể mang mầm bệnh bị tiêu diệt, clo và những hóa chất được chấp thuận khác được cho vào ao lắng để xử lý. Nước sau đó được giữ trong ít nhất 72 giờ để hủy hoại tất cả những mầm virus. Thay nước nên hạn chế trong suốt quá trình nuôi để giảm thiểu khả năng đưa vào những mầm virus.
Quản lý ao nước
|
Các bể lắng sử dụng màng chống thấm thể chứa nước |
Mật độ thả tiền ấu trùng và năng lượng sử dụng trong ao nuôi cần phải được tính toán dựa trên cấu trúc hồ, và hệ thống áp dụng. Chiến lược thoát khí cần phải được hoạt động để giữ nước trong hồ có lượng oxy hòa tan tại mức độ thống nhất bằng cách hoạt động liên tục suốt ngày và đêm trong khi cũng nên xem xét chi phí năng lượng.
Để làm tăng sức chứa của ao nuôi, bùn tích tụ dưới đáy ao cần phải loại bỏ bằng cách rút ra thông qua một cống trung tâm (xi-phông). Việc rút ra thường bắt đầu đầu từ ngày 40 đến ngày 50, tùy thuộc vào việc quản lý ao. Ao nuôi có thể được rút 2-3 lần mỗi ngày (tùy theo mật độ thả nuôi), tối đa hai giờ mỗi lần.
Kiểm soát con người và thiết bị
|
Sử dụng túi lọc để loại bỏ ấu trùng, trứng giáp xác |
Một yếu tố quan trọng nữa chính là kiểm soát hiệu quả yếu tố vận chuyển của con người và thiết bị sử dụng vì những vật trung gian này có thể mang virus đến. Kiểm soát con người được áp dụng cho người quản lý ao cũng như các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Mỗi ao cần phải có thiết bị riêng để kiểm tra nước. Nếu phải chia sẻ những thiết bị như lưới, cần phải quan tâm việc khử trùng lưới trước và sau khi sử dụng.
Chỉ những người có trách nhiệm được chỉ định mới có thể xử lý mẫu và thiết bị. Nếu được yêu cầu, những mẫu thử có thể mang đến phòng thí nghiệm để được phân tích thêm.
Kiểm dịch, an toàn sinh học
Trong trường hợp virus bùng phát, giao thức kiểm dịch cần thiết phải được tuân thủ nghiêm ngặt để ngăn ngừa virus lây sang ao khác hay cả trang trại. Ngay sau khi một ao được nghi ngờ là bị virus tấn công, ao đó phải được kiểm dịch với những dấu hiệu và tiêu chuẩn khác để ngăn chặn việc xâm nhập khu vực ao. Đảm bảo tất cả cổng vào và ra từ ao được đóng lại an toàn.
Nếu phát hiện dương tính với virus, ao phải được khử trùng với clo với một liều lượng cao hơn bình thường càng sớm càng tốt. Đừng lãng phí thời gian chờ đợi những báo cáo về phản ứng chuỗi trùng hợp. Tất cả tôm chết cần phải thu thập lại và thiêu hủy hay chôn. Ngừng hoạt động tất cả thiết bị sục khí, máy quạt nước, nhưng không được đưa nó ra khỏi hồ. Để nước ở trong đó trong vòng một tuần trước khi thải ra.
Nhân tố con người cần thiết trong việc kiểm soát khu vực cách ly. Tất cả những mẫu tôm và bảng phân tích môi trường cần phải hoãn lại để ngăn ngừa lây lan đến những ao khác. Một đội đặc biệt cần được phân công để thực hiện các công tác kiểm dịch.
Nhận thức về an toàn sinh học là cần thiết cho tất cả nhân viên ở trang trại. Không có cách nào khác để biết khi nào virus tấn công sẽ xuất hiện, vì thế giáo dục thông qua những buổi hội thảo hay họp cho tất cả các cấp tại trang trại là rất quan trọng.
Nguồn, hình ảnh: Global Aquaculture Advocate, 2010
Tác giả: Nyan Taw, Ph.D.
Blue Archipelago Bhd. T3-9 KPMG Tower 8 First Avenue, Persiaran Bandar Utama, 47800 Petaling Jaya Selangor, Malaysia
Tags: an toàn ao nuôi tôm, ngăn ngừa dịch bệnh ao nuôi, an toàn sinh học ao tôm