Tôm thẻ chân trắng Ảnh hưởng Sterol với tỷ lệ sinh trưởng và sống của tôm

Ảnh hưởng Sterol với tỷ lệ sinh trưởng và sống của tôm

Author 2LUA.VN, publish date Thursday. April 6th, 2017

Ảnh hưởng Sterol với tỷ lệ sinh trưởng và sống của tôm

Tóm tắt

Bể nuôi thủy sản được sử dụng cho việc thử nghiệm tỷ lệ tăng trưởng nhờ Sterol thực hiện tại Viện Nghiên Cứu Tôm và Hải Sản TAES.

Nghiên cứu cho thấy rằng mức độ và chất lượng Sterol trong việc cho ăn thử nghiệm tác động đến hiệu suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương. Nếu như tôm phát triển tốt nhất khi được cho ăn kiểm soát thương mại, chúng cũng phát triển gần tốt như thế nhờ vào việc cho ăn bổ sung thức ăn bán tinh khiết với nồng độ đậm đặc cao các chất cholesterol tinh khiết và bán tinh khiết. Các loại Sterol khác phần nào đã thõa mãn nhu cầu cholesterol cần thiết cho vật nuôi.

Cholesterol là một chất dinh dưỡng thiết yếu trong chế độ ăn của tôm. Giống như loài giáp xác khác, tôm không thể tổng hợp cholesterol, vì vậy bổ sung cholesterol rất cần thiết cho sự tăng trưởng và sự sống còn của tôm.

Mức độ dinh dưỡng tối ưu phụ thuộc vào từng chủng loại tôm, mức độ tăng trưởng, tỷ lệ cho ăn và sự hiện diện của các loại dinh dưỡng khác. Dưới các điều kiện khác nhau, nhu cầu cho Cholesterol của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương – Litopenaeus vannamei nằm trong mức 0.05 – 0.5%.

Chế độ dinh dưỡng chứa phospholipids có thể giúp cải thiện việc hấp thu cholesterol của động vật giáp xác và giảm yêu cầu của chúng đối với cholesterol. Khi L.vannamei được cho ăn quá mức, mức cholesterol giúp tôm tăng trưởng tối ưu được báo cáo là 0.35, 0.14, 0.13 và 0.05 % và mức phospholipid tương ứng là 0, 1.5, 3.0, và 5.0 % (Gong et al ., 2000).

Chế độ bổ sung

Để đáp ứng 1 phần nhu cầu bổ sung cholesterol, thức ăn cho tôm phải được chế biến từ các loại như cá, cua, mực, và các động vật khác có chứa cholesterol. Tuy vậy, việc bổ sung cholesterol tinh khiết hoặc các thành phần khác có chứa cholesterol vẫn cần thiết để tôm đạt được sự phát triển tối ưu (Coutteau et al., 2002). Tuy nhiên, cholesterol là một thành phần thức ăn tương đối đắt đỏ.

Các nhu cầu dinh dưỡng cần thiết như cholesterol của động vật giáp xác có khả năng được đáp ứng bởi các loại sterol khác hơn là cholesterol. Việc chuyển đổi cholesterol sang sử dụng các loại sterol khác đã được chứng minh ở nhiều động vật giáp xác. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng các yêu cầu về cholesterol khi sử dụng sterol là khác nhau ở động vật giáp xác về tỷ lệ tăng trưởng và sống sót. Phytosterol là 1 ví dụ khi chỉ có hiệu quả tương đối khi được dùng để thay thế cho cholesterol trong tôm (Teshima et al., 1989).

Bổ sung cholesterol

So sánh cholesterol bổ sung với hợp chất cholesterol và sterol khác, các chuyên gia đã tiến hành một thử nghiệm tăng trưởng trên tôm L. vannamei sử dụng hai cholesterol bổ sung. Cholesterol SF là một sản phẩm cholesterol tinh khiết chứa 91% hoặc nhiều hơn cholesterol và 97% hoặc nhiều hơn sterol. Cholesterol FG là một sản phẩm ít tinh khiết có chứa 60% hoặc nhiều hơn cholesterol và 75% hoặc nhiều hơn sterol. Các sản phẩm FG có giá thấp hơn 10% so với cholesterol SF.

Để chứng minh sự đóng góp của sterol nhiều hơn cholesterol, một hỗn hợp sterol thứ ba, sterol M1M, được đem ra so sánh với cholesterols SF và FG. M1M chứa 21% cholesterol và 63% tổng số sterol. Các thành phần của sterol khác với cholesterol trong M1M nhưng tương tự như trong cholesterol FG.

Bảng 1. Mức cholesterol và tổng mức sterol trong chế độ dinh dưỡng thử nghiệm.

Chế độ dinh dưỡng thử nghiệm

Sử dụng các thành phần tinh khiết và bán tinh khiết, chế độ dinh dưỡng này được xây dựng để chứa năm cấp độ các chất bổ sung (0.00, 0.05, 0.10, 0.20, và 0.40 %). Ngoài ra, một chế độ ăn thương mại chất lượng cao được sử dụng để so sánh chế độ ăn bán tinh khiết với một nguồn cấp dữ liệu thực tế.

Công thức dinh dưỡng thay thế lượng sterol bằng lượng bột mì ngang bằng. Các nguồn protein chính đã được làm sạch như protein từ đậu nành, casein và gluten từ lúa mì. Nhuyễn thể ăn được được bổ sung ở mức 2% như một chất tạo sự hấp dẫn. Để giảm thiểu sự tương tác giữa các phospholipid và cholesterol, phospholipid không được thêm vào.

Các thành phần trên được nén lại ở nhiệt độ phòng sử dụng carboxymethylcellulose như một chất kết dính. Phân tích tương đối của 1 khẩu phần thí nghiệm là 35,5 % protein , 6,0 % lipid , 8,2 % tro , và 4 % chất xơ.

Mức cholesterol và tổng lượng sterol trong thức ăn được tính cho mỗi khẩu phần lấy từ mức cholesterol trong chế độ ăn cơ sở, số lượng sterol bổ sung trong chế độ ăn uống cũng như các khoản cholesterol và tổng sterol trong phần thức ăn bổ sung (Bảng 1). Mức độ phân tích của cholesterol và phân tích tương đối thành phần trong các phần ăn thử nghiệm đều được tính toán chặt chẽ trên mọi cấp độ.

Thử nghiệm tăng trưởng

Trong một thử nghiệm tốc độ tăng trưởng kéo dài 57 ngày, tôm có trọng lượng trung bình 0,21g được thả với mật độ tôm 4 con trong bể 30l. Nước biển đã lọc và được đun nóng được tái lưu thông qua các bể để loại bỏ thức ăn thừa và đảm bảo chất lượng nước cao. Khoảng 9 -12 % lượng nước này được thay thế hàng ngày. Độ mặn được duy trì ở mức 25-26 ppt, với nhiệt độ ở 30-32 ° C.

Tôm được cho ăn 15 lần mỗi ngày với hệ thống cho ăn tự động với tốc độ vượt quá số lượng được tiêu thụ. Trong cuộc thử nghiệm, nhiệt độ, oxy hòa tan, độ mặn và được đo hàng ngày. Ammonia, nitrit, nitrat, và pH được đo hàng tuần. Tất cả các thông số nhằm tạo ra chất lượng nước thích hợp cho sự phát triển tốt và nâng cao tỷ lệ sống sót cho tôm.

Tỷ lệ sống sót

Khi áp dụng chế độ dinh dưỡng thử nghiệm, tỷ lệ sống dao động từ 64% cho các chế độ ăn uống không bổ sung sterol, 91% cho các chế độ ăn uống với 0,4 % cholesterol FG. Tỷ lệ sống cho tôm ở chế độ ăn uống kiểm soát là 94 %.

Tỷ lệ sinh trưởng

Những ảnh hưởng của loại sterol và mức độ sử dụng sterol bổ sung trong sự tăng trưởng của tôm được tóm tắt trong hình 1. Với chế độ dinh dưỡng bán tinh khiết, tôm tăng trọng lượng dao động từ 1,6 g cho chế độ không cần bổ sung sterol cho đến 7,0 g cho các chế độ ăn uống với 0,4% FG. Trọng lượng tăng khi áp dụng chế độ kiểm soát là 9,7g.

Đối với các chế độ dinh dưỡng được thử nghiệm, có một sự tương tác giữa các loại sterol được sử dụng và mức độ sử dụng chúng. Đối với mức 0,05%, tỷ lệ tăng trưởng khi áp dụng FG là lớn hơn so với M1M. Đối với các mức 0.1- 0.4 %, tỷ lệ tăng trưởng của cả SF và FG là lớn hơn so M1M, nhưng sự khác biệt giữa SF và FG không đáng kể.

Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng tăng lên khi mức sterol tăng. Tuy nhiên, đối với chế độ SF, mức tăng trưởng không tăng trên 0,2% còn với FG và M1M, mức độ tăng trưởng không giảm dưới 0,1 %. Kết quả cho thấy rằng mức cholesterol cần thiết để tôm đạt sự phát triển tối ưu là 0.16% đối với cholesterol SF và 0.25 % đối với cholesterol FG 0,25%.

Những ảnh hưởng của cholesterol trong khẩu phần tăng trưởng được thể hiện trong hình 2. Các dữ liệu về cholesterol SF chỉ ra rằng các yêu cầu đối với cholesterol là 0,15 % theo các điều kiện thử nghiệm. Các giá trị tăng trưởng cho cholesterol FG và sterol M1M ở trên mức cholesterol SF. Điều này cho thấy tỷ lệ tăng trưởng lớn hơn so với những gì được dự kiến khi chỉ sử dụng cholesterol riêng lẻ. Các sterol khác chứ không phải là cholesterol trong cholesterol FG và sterol M1M đã đóng góp vào sự gia tăng này

Những ảnh hưởng đến tăng trưởng của tổng lượng sterol trong chế độ ăn được thể hiện trong hình 3. Ngược lại với những ảnh hưởng của cholesterol trong hình trước, phản ứng tăng trưởng cho sterols M1M thấp hơn cholesterol SF, chúng ta có thể suy ra rằng sterol trong M1M không hiệu quả như các sterol cholesterol chủ yếu trong cholesterol SG.

Lưu ý : tài liệu tham khảo trích dẫn có sẵn từ các tác giả đầu tiên .


Những thách thức của công nghệ ras Những thách thức của công nghệ ras Trang trại chuyên sâu tại Bali, sản xuất tôm trong hệ thống Biofloc. Trang trại chuyên sâu tại Bali, sản xuất…