Tôm thẻ chân trắng Đặc điểm sinh học và phương thức nuôi cá loc

Đặc điểm sinh học và phương thức nuôi cá loc

Publish date Sunday. June 28th, 2015

Đặc điểm sinh học và phương thức nuôi cá loc

Có  nhiều loại hình nuôi đang được áp dụng: nuôi đơn trong ao, bè (thường được nuôi theo phương thức bán công nghiệp hay công nghiệp), nuôi trong lồng lưới kết hợp với ao cá nước tĩnh (mô hình thử nghiệm của Trường ĐH Nông Lâm) tức cá lóc được nuôi thâm canh trong lồng lưới, lồng lưới được đặt trong ao nuôi các loài cá khác, hoặc nuôi ghép cá lóc với các loài cá khác (rô đồng, sặc rằn, rô phi, mè, trôi, trắm cỏ…) trong ao, ruộng, hay nuôi trong mô hình VAC.

I. Đặc điểm sinh học và sinh thái học:

Về môi trường sống: Ngoài tự nhiên cá phân bố ở nhiều loại thủy vực  nước ngọt, lợ, chúng có mặt ở sông, kênh rạch, ao, đầm lầy, ruộng, bưng, đìa… Cá thích sống nơi có thực vực thủy sinh (rong, cỏ, bèo…) để thuận lợi cho việc rình và bắt mồi.

Về khả năng thích nghi: Cá có thể sống trong cả môi trường nước ngọt và lợ (8 – 12 %), độ pH thích hợp 6.3 – 7.5, nhiệt độ phù hợp cho tăng trưởng của cá 25 – 30 độ C.  Đặc biệt, nhờ vào cấu tạo thích nghi của cơ quan hô hấp, sự phát triển của cơ quan hô hấp phụ trên mang, ngoài việc sử dụng oxy có trong nước, cá còn có khả năng lấy oxy trực tiếp từ ngoài không khí (khí trời). Cá có thể sống trong môi trường chật hẹp, trong điều kiện nước dơ bẩn, nước tù, thiếu oxy. Đây cũng là ưu thế để phát triển các mô hình nuôi thâm canh trong bè, trong ao.

Về đặc tính dinh dưỡng: Cá lóc mới nở tự dưỡng bằng noãn hoàng trong 3 ngày, có thể ăn các động vật rất nhỏ trong nước (luân trùng) hay lòng đỏ trứng,  sau 5 – 7 ngày có thể ăn moi na (con đỏ), trùn chỉ, thức ăn tổng hợp dạng bột. Khi trưởng thành cá ăn động vật là chủ yếu, khả năng rình bắt mồi rất tốt, trong thủy vực chúng ăn nhiều nhất là các loại cá có kích thước nhỏ tôm, tép. Trong điều kiện nuôi cá ăn được nhiều loại thức ăn cá biển, phụ phế phẩm của nhà máy chế biến thủy hải sản, phế phẩm từ lò mổ gia súc, gia cầm và cả cám viên tổng hợp.

Về sức tăng trưởng: Nếu nuôi cá lóc từ cở 5 – 7cm sau 12 tháng nuôi cá đạt trong lượng từ 500 – 700 g/con. Cá lớn nhanh từ tháng nuôi thứ tư, thứ năm (khi cá đạt được 100 g/con) lúc này cá ăn rất mạnh. Cá ăn nhiều, hoạt động mạnh và lớn nhanh vào mùa Xuân – Hè. Và đây cũng là giai đoạn cá béo nhất trước khi bước vào mùa sinh sản vào đầu mùa mưa.

II. Kỹ thuật nuôi:

2.1/ Chuẩn bị 

Ao nuôi cá lóc có diện tích 50 – 500 m vuông là phù hợp. Độ sâu nước ao từ 1.5 – 2 m.

Chuẩn bị ao:

+ Vét sạch lớp bùn đáy càng sạch càng tốt. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tính chất đất ở nền đáy và tầng sinh phèn, có những vùng càng vét sâu và phèn càng cao. Những ao ở vùng này nếu nuôi cá lóc sẽ gặp khó khăn khi gây nuôi thức ăn tự nhiên và nhất là khi thu hoạch.

+ Bón  vôi 10 – 20 kg/100 mét vuông ao, phơi đáy ao 3 - 5  ngày, lấy nước vào ao  60 – 80 cm, tiến hành diệt tạp (2 kg thân và rễ cây thuốc cá cho vào 100 mét khối nước ao hoặc dùng các sản phẩm Rotenone, Saponine có bán sẳn trên thị trường). Sau khi diệt tạp được 5 – 7 ngày, bón 20 – 30 kg phân chuồng đã ủ hoai cho 100 mét vuông ao hoặc phân vô cơ DAP 300g/100 mét vuông ao. Sau 4 –6 ngày thấy nước có màu xanh và có nhiều động vật nhỏ (phiêu sinh động) ở quanh bờ vào buổi sáng là có thể thả cá lóc con vào nuôi.

Đối với ao nuôi cá lóc cần chú ý: Cá lóc trưởng thành có khả năng phóng cao hơn 1m khỏi mặt nước. Vì thế, để đề phòng mất mát, bờ ao phải cao, chắc chắn và được bao lưới quanh bờ (dùng lưới khổ 1.6 – 1.8 m), nhất là đoạn bờ gần cống cấp nước vào; vì, khi có nước mới vào hoặc sau các cơn mưa, cá sẽ tìm cách phóng đi. Mặt khác, cống cấp thoát nước cho ao cũng phải được bao lưới sắt. Trên mặt ao, nên thả lục bình, rong, bèo chiếm 30 – 50% diện tích mặt nước ao nuôi. Chủ yếu là bố trí quanh ao, dọc theo chiều dài bờ, để vừa hạn chế ô nhiễm nước ao, vừa che mát cho cá, vừa là chỗ cho cá trú ẩn, cũng vừa hạn chế cá phóng ra ngoài.

2.2/ Thả giống

Chọn giống: Chọn cỡ giống từ 8 – 10 cm (giống càng lớn, cá càng lớn nhanh và ít hao hụt), giống đồng đều, không bị bong vẫy, trầy sướt ở đầu, mình, màu sắc sáng bóng đặc trưng.

Mật độ thả nuôi: Cá lóc có thể nuôi ở mật độ 30 con/mét vuông. Tuy nhiên, khi tính toán đến mật độ thả cần tính đến khả năng cung cấp thức ăn cho cá trong thời gian nuôi dài. Cá lóc có thể thả nuôi ghép với một số loài cá khác: hường, rô phi, tai tượng, sặc rằn... (các loài cá ghép nên thả mật độ 1 – 2 con/mét vuông và chú ý đến cở giống thả phải lớn hơn cá lóc).

Cách thả giống: Thả vào lúc trời mát, bao giống được ngâm trong ao 20 – 30 phút, khi thả mở miệng bao để cá lội nhẹ nhàng ra ao, thả giữa ao hoặc cách bờ ít nhất 5m (đối với ao lớn).

2.3/ Chăm sóc

Cho cá ăn:

Chuẩn bị thức ăn cho cá với nhiều loại thức ăn như:

+ Thức ăn tận dụng từ các loại cá rẻ tiền, các phụ phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản, lò mổ gia súc, gia cầm, cần rửa sạch, cắt nhỏ (phù hợp với cỡ cá) nấu chín rồi mới cho cá ăn.

+ Thức ăn tự chế biến thức ăn cho cá có thể áp dụng theo công thức: 75 % đầu tôm, cá xay + 25 % cám gạo, xay nhuyễn, nấu chín, trộn vitamine, khoáng, vò viên cho cá ăn.

+ Nếu sử dụng cám viên để nuôi, phải tập cho cá ăn ngay từ nhỏ.

Lượng thức ăn hàng ngày: Trong 2 tháng nuôi đầu lượng thức ăn 7 – 8 % trọng lượng đàn. Sau đó, giảm dần đến cuối giai đoạn nuôi còn 3 – 4 %. lượng thức ăn phải được theo dỏi và điều chỉnh hàng ngày dựa vào điều kiện thời tiết, sức ăn của cá. Ngày cho ăn 3 - 4 lần lúc nhỏ và 2 lần lúc lớn.

Cách cho ăn: Nên bố trí nhiều sàn ăn trong ao để cho cá ăn (nhất là đối với thức ăn tự chế biến hay các loại thức ăn tận dụng  khác), vì cá ăn thức ăn có thành phần nguyên liệu là thịt động vật cao nên dể gây ô nhiễm nước ao. Cách cho ăn trên sàn vừa tiết kiệm chi phí thức ăn vừa quản lý được sức ăn của cá cũng vừa tiết kiệm được năng lượng tìm kiếm thức ăn cho cá và đề phòng ô nhiễm nguồn nước.

Chú ý: Không cho ăn quá thừa hay thiếu, cá lóc rất phàm ăn nên sau khi cho ăn 20 phút, thấy thức ăn trong ao vẫn còn tức thức ăn đã bị nhiều, cần vớt bỏ và giảm lượng thức ăn cho lần sau. Tuyệt đối không để thức ăn bị ôi thiu, chỉ nên chế biến cho ăn trong ngày, thức ăn tươi cần được bảo quản kỹ.

Thay nước:

Thay nước theo thủy triều hoặc ít nhất 1 lần/tuần (lúc nhỏ), 2 lần/tuần (lúc lớn). Khi thấy nước ao bị đục hay có màu xanh đậm cần tăng cường thay nước. Lượng nước thay từ 30 – 60% tuỳ theo diễn biến màu nước.

Ngoài ra, cần chú ý chăm sóc khác:

- Thường xuyên thăm ao, kiểm tra cống bọng, bờ, lưới bao nhất là vào những ngày triều cường hay có mưa để đề phòng cá ra ngoài. Cũng đề phòng trộm câu cá vào ban đêm (cá lóc háu ăn nên rất dể câu).

- Nếu trong ao có thả bèo, lục bình nên định kỳ vớt bỏ các bèo, lục bình già, tránh ô nhiễm nước ao và phòng bệnh cho cá.

- Khi trời quá nóng hay lạnh cần châm thêm nước vào ao sao cho mực nước ít nhất 1.5 m để cá có thể xuống sâu tránh nóng, tránh rét.

III. Phòng trị bệnh:

Trong môi trường nuôi cá lóc thường bị các bệnh, chủ yếu thuộc 2 nhóm sau: 

3.1/ Bệnh do vi khuẩn:

Bệnh nhiễm trùng huyết, bệnh lỡ loét, bệnh đốm đỏ…  

Nguyên nhân: Do vi khuẩn thường xuyên có mặt trong ao nuôi cá gây ra (Aeromonas sp.; Pseudomonas sp.; Streptococcus spp.; Mycobacterium sp.; …)

-Cá bị nhiễm khuẩn có các triệu chứng đặc trưng sau :

+ Da cá sậm màu hơn bình thường hoặc bị mất màu. 

+ Hiện tượng xuất huyết ở bụng, ở vây, ở quanh miệng, nắp mang.

+ Bị tróc vẫy, da bị lỡ loét, kể cả trên đầu.

+ Đuôi, vây bị hoại tử.

Phòng bệnh:

+ Ngoài việc đảm bảo các yếu tố kỹ thuật nuôi, để phòng bệnh nhiễm khuẩn có thể dùng các sản phẩm chuyên dùng để sát trùng nước nuôi định kỳ (Vikon A, Bioxide for fish…)

+ Cung cấp khoáng và Vitamine, đặc biệt Vitamine C vào thức ăn đảm bảo nguồn dinh dưỡng, tăng sức đề kháng bệnh cho cá.

Để điều trị các bệnh do vi khuẩn, có thể dùng các loại thuốc: Ciprotrim plus, Kana ampicol, Osamet fish, Rifato, Colimycine trộn vào thức ăn (Với liều lượng theo hướng dẫn của nhà cung cấp) cho cá ăn liên tục 5 – 7 ngày.

Chú ý: Lượng thức ăn cho ăn trong những ngày điều trị bệnh chỉ bằng 30 – 50 % lượng thức ăn bình thường hoặc tạm ngưng không cho ăn.

 3.2/ Bệnh do ký sinh trùng: 

Do các ký sinh trùng (giun, sán…) ký sinh trên da, vây, mang của cá       (ngoại ký sinh) hay ký sinh trong cơ, ruột, gan tụy của cá (nội ký sinh).

Cá bị bệnh ký sinh trùng có các dấu hiệu có thể quan sát bằng mắt thường:

+ Da cá nhợt nhạt, màu trắng đục, có nhiều nhớt (đôi khi có cả một lớp dày như cơm dừa non).

+ Da, vây và mang cá có các hạt lấm tấm

+ Cá ngứa ngáy, cọ quậy quanh bờ, quẫy mình, tập trung nơi nước chảy. Mang bị ký sinh nặng cá sẽ bị ngạt thở.

+ Đối với các dạng nội ký sinh sẽ thấy cá yếu, ăn kém kéo dài, chậm lớn, cơ thể mất cân đối (cá ốm, đầu to, mình nhỏ…).

Phòng bệnh:

+ Cải tạo ao kỹ, nhất là các ao có nhiều ốc cần loại bỏ hết ốc.

+ Nuôi với mật độ vừa phải.

+ Khi phát hiện cá bệnh phải nhốt điều trị riêng, cá chết phải loại bỏ cách xa ao.

+ Bổ sung các vitamine, khoáng vào thức ăn, định kỳ sát trùng nước nuôi bằng các sản phẩm (Dermatis, Vikon A…)

Trị bệnh: Dùng Hadaclean, Enro colistin for fish trộn vào thức ăn cho cá ăn 1 – 3 ngày.

Tags: ky thuat nuoi ca loc, dac diem sinh hoc ca loc, nuoi ca loc, nuoi thuy san


Related news

Nuôi tôm sú sạch Nuôi tôm sú sạch Bệnh phân trắng trên tôm sú Bệnh phân trắng trên tôm sú