Mô hình kinh tế Khơi Dòng Tín Dụng Cho Tôm Và Cá Tra

Khơi Dòng Tín Dụng Cho Tôm Và Cá Tra

Publish date Thursday. February 28th, 2013

Khơi Dòng Tín Dụng Cho Tôm Và Cá Tra

Tại Hội nghị về sản xuất, tiêu thụ lúa và thủy sản vùng ĐBSCL tổ chức ngày 27/2, theo phản ánh từ các địa phương, khó khăn về thị trường, chính sách tín dụng là những thách thức đối với ngành hàng thủy sản.

Theo báo cáo tổng hợp, năm 2012 có 30 địa phương nuôi tôm nước lợ với diện tích 655.000 ha, đạt sản lượng 487.960 tấn. Diện tích thả nuôi tương đương nhưng sản lượng giảm 1,6% so với niên vụ trước do có hơn 100.000 ha tôm bị thiệt hại do dịch bệnh.

Trong khi đó, giá tôm nguyên liệu biến động bất thường, có thời điểm giảm tới 50% do nhu cầu tiêu thụ tôm trên thị trường thế giới giảm. Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu tôm sang 92 thị trường với tổng giá trị khoảng 2,24 tỷ USD, giảm 6,6% so với năm trước, trong đó thị trường Mỹ và EU giảm mạnh tới 18,6 – 24,5%.

Về cá tra, đến hết năm 2012, tổng diện tích nuôi cá tra toàn vùng đạt 5.910 ha, sản lượng đạt 1,28 triệu tấn, tăng 100.000 tấn. Tương tự như mặt hàng tôm, do cầu thị trường giảm và dịch bệnh, kim ngạch xuất khẩu cá tra giảm mạnh, hiện dao động từ 19.200 - 23.500 đ/kg trong khi giá thức ăn tăng thêm 700 – 1.200 đồng/kg khiến người nuôi chịu lỗ 2.000 - 5.000 đồng/kg. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 1,744 tỷ USD, giảm 3,4% so với năm trước.

Theo dự báo năm 2013 của Bộ Công Thương, xuất khẩu tôm, cá tra sẽ gặp khó khăn. Kim ngạch cá tra ở mức 1,8 tỷ USD, nếu diễn biến xấu chỉ đạt mức thấp 1,2 tỷ USD. Xuất khẩu tôm chỉ có khả năng đạt chỉ đạt 1,9 tỷ USD kim ngạch.

Bên cạnh khó khăn về thị trường, thủy sản ĐBSCL năm qua gặp nhiều vướng mắc trong triển khai cơ chế, chính sách liên quan. Trong đó nổi lên vấn đề tín dụng, đa số các DN đều “kêu” khó tiếp cận vốn ngân hàng mặc dù đã có chỉ đạo chính sách từ Chính phủ, về thời hạn vay chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất.

Theo Ngân hàng Nhà nước, trong năm 2012, vốn vay cho cá tra đạt 51.876 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2011. Đến đầu năm 2013, dư nợ cho vay nuôi trồng, chế biến xuất khẩu cá tra của các tổ chức tín dụng trong khu vực ĐBSCL đạt 22.777,5 tỷ đồng. Dư nợ cho vay nuôi, chế biến tôm đạt 22.975 tỷ đồng.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các ngân hàng ưu tiên cho vay chăn nuôi, giảm lãi suất tín dụng để tháo gỡ khó khăn cho người nuôi và DN chế biến cá tra xuất khẩu. Đối với mặt hàng tôm đang bắt đầu triển khai việc thực hiện gia hạn nợ tối đa 24 tháng với lãi suất tối đa 11%/năm.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho biết vẫn khó tiếp cận được các nguồn tín dụng nói trên, nhất là các hạng mục hỗ trợ sản xuất phát triển. Hạn mức cho vay thấp, lãi suất cao so với là những khó khăn mà nhiều nông dân, DN gặp phải trong thời gian qua.

Các DN, địa phương kiến nghị ngân hàng tiếp tục tháo gỡ các vướng mắc về vay vốn tại cơ sở, đặc biệt xem xét về điều kiện vay, mức vay và thời gian vay theo chu kỳ sản xuất (8 - 12 tháng), cơ cấu lại vốn vay theo hướng từ vay ngắn hạn sang vay trung và dài hạn.

Bộ Công Thương cũng cần chủ trì cùng các đơn vị liên quan sớm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc xuất khẩu mặt hàng tôm ở thị trường Mỹ (chống bán phá giá và trợ cấp), Nhật Bản (hạn mức dư lượng Ethoxyquyn) và các thị trường trọng điểm khác.

Chủ trì cuộc họp ngày 27/2, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải lưu ý những vấn đề thách thức cho mặt hàng tôm cá xuất khẩu vùng ĐBSCL. Trước hết là việc theo dõi, đánh giá sát diễn biến thị trường để đưa ra những kế hoạch, giải pháp phù hợp.

Bộ NNPTNT tổng hợp, xem xét các vấn đề kiến nghị, phản ánh tại các địa phương để định hướng phát triển năm 2013 trong chăn nuôi, chế biến theo hướng phát triển bền vững, không tăng sản lượng và mở rộng diện tích. Thay vào đó, tập trung giải pháp tăng giá xuất khẩu để tăng mua cá nguyên liệu bằng việc tổ chức lại sản xuất tôm, cá tra trong nước, liên kết chặt chẽ với DN chế biến, nuôi theo quy hoạch và quy trình tiên tiến, kiểm soát chất lượng đầu vào từ con giống đến thức ăn.

Các cơ quan hữu quan tiếp tục tập trung giải quyết các rào cản kỹ thuật từ các thị trường, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Nâng cao vai trò các Hiệp hội trong việc rà soát danh sách những thành viên gặp vướng mắc để kịp thời phản ánh, kiến nghị các cơ quan quản lý xử lý kịp thới cho DN.


2 Giống Bắp Nếp Lai Mới Cho Giá Trị Kinh Tế Cao Ở Quảng Nam 2 Giống Bắp Nếp Lai Mới Cho Giá… Thành Công Từ Mô Hình Nuôi Lươn Thành Công Từ Mô Hình Nuôi Lươn