Lựa chọn thức ăn tươi sống cho cá mú giai đoạn bột
Lựa chọn thức ăn tươi sống giúp kích thích tăng trưởng và tăng cường tỉ lệ sống cá mú lai giai đoạn giống.
Cá mú là đối tượng nuôi phổ biến ở các vùng ven biển.
Cá mú được nuôi nhiều ở các nước Đông Nam á như Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, phía đông nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện nay có khoảng 30 loại cá mú, trong đó 8 loài có giá trị kinh tế cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như cá mú vua E. lanceolatus, cá mú hổ E. fuscogutatus, cá mú vạch E. brunneus, cá mú chấm tổ ong E. merra, cá mú chấm đỏ E. akaara, cá mú cọp E. megachir, cá mú sọc vàng E. costae, cá mú mỡ E. tauvina.
Cá mú lai là phép lai giữa cá mú nghệ với cá mú hổ hay còn gọi mú cọp để thừa hưởng ưu thế của 2 giống cá này về chất lượng thịt, tốc độ phát triển nhanh và khả năng thích nghi môi trường khắc nghiệt.
Hiện cá mú lai được người nuôi phát triển vùng ven biển cả nước ưa chuộng, nhất là tại Cam Ranh (Khánh Hòa) và một số tỉnh miền Nam. Cụ thể, tại Cam Ranh, cá mú lai hiện đã chiếm đến 70% diện tích so với các loại cá mú hổ, cá mú đen.
Phương pháp thí nghiệm
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra loại thức ăn tươi sống thích hợp cung cấp cho ấu trùng cá mú lai từ giai đoạn ấu trùng mới nở lên cá hương (56 ngày tuổi) để đạt được tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng cao.
Ấu trùng cá mú lai sử dụng trong nghiên cứu này được tạo ra từ sự thụ tinh giữa ♂ cá mú nghệ Epinephelus lanceolatus và ♀ cá mú hổ Epinephelus fuscoguttatus.
Thí nghiệm 1: Ở giai đoạn ương 0 - 12 ngày tuổi, ấu trùng cá mú được thử nghiệm với 4 nghiệm thức thức ăn khác nhau:
- Nghiệm thức (1): luân trùng Brachionus rotundifrormis
- Nghiệm thức (2) copepoda nauplius Paracalanus sp + luân trùng Brachionus plicatilis
- Nghiệm thức (3) ấu trùng trochophore hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas + luân trùng Brachionus plicatilis
- Nghiệm thức (4) luân trùng Brachionus plicatilis+ copepoda naupli Paracalanus sp+ ấu trùng trochophore hàu Thái Bình Dương Crassostrea gigas
- Nghiệm thức đối chứng: không bổ sung thức ăn tươi sống.
Thí nghiệm 2: Cá bột (12 ngày tuổi) được thử nghiệm ương bằng cách cho ăn Artemia nauplii và copepoda (copepoda nauplius Paracalanus sp + copepoda Paracalanus sp trưởng thành)
Kết quả
Thí nghiệm 1: cá được cho ăn thức ăn tươi sống kết hợp giữa copepoda nauplius Paracalanus sp và luân trùng Brachionus plicatilis cho tỷ lệ sống của ấu trùng cá mú lai cao nhất ở giai đoạn ương đến 12 ngày tuổi (8,47 ± 0,91%) cao hơn các nghiệm thức còn lại và thấp nhất là nghiệm thức đối chứng.
Thí nghiệm 2: Ở giai đoạn ương cá bột 12 ngày tuổi lên cá hương 56 ngày tuổi sử dụng thức ăn kết hợp copepoda nauplius (Paracalanus sp) và copepoda (Paracalanus sp) trưởng thành làm thức ăn, cá mú lai cho tốc độ tăng trưởng đạt 35,9 ± 1,1 mm và tỷ lệ sống cao (17,8 ± 1,5 %) khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức bổ sung Artemia nauplii cho kết quả thấp hơn.
Kết quả từ nghiên cứu đã cung cấp thông tin cơ sở khoa học về sử dụng thức ăn tươi sống phù hợp cho cá mú lai giai đoạn cá bột góp phần hoàn thiện nghiên cứu về sinh sản và sản xuất giống nhân tạo loài cá mú nói chung và cá mú lai nói riêng góp phần vào việc bảo tồn và duy trì nguồn lợi loài cá này.
Theo Nguyễn Đức Tuấn, Vũ Thị Thanh Nga, Trần Thế Mưu, Phạm Quốc Hùng - Tạp chí NN&PTNT.
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao