Tin thủy sản Nền kinh tế xoay vòng - Tại sao những người nuôi tôm Indonesia thay đổi hình dạng ao nuôi

Nền kinh tế xoay vòng - Tại sao những người nuôi tôm Indonesia thay đổi hình dạng ao nuôi

Author 2LUA.VN biên dịch, publish date Tuesday. June 8th, 2021

Nền kinh tế xoay vòng - Tại sao những người nuôi tôm Indonesia thay đổi hình dạng ao nuôi

Các ao nuôi tôm hình tròn ngày càng được sử dụng nhiều bởi các nông dân và  nhà doanh nghiệp quy mô nhỏ ở Indonesia, nơi mà ở đó họ cũng đang nhận được sự ủng hộ từ phía chính phủ.

Một trong số các ao nuôi tôm hình tròn mới nhất của Rizky Darmawan ở Indonesia. Ảnh: Rizky Darmawan

Indonesia là một trong những nước sản xuất tôm lớn nhất ở Đông Nam Á. Ban đầu, vào những năm 1980, tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng được nuôi rộng rãi nhất và hầu hết các nông dân ưa chuộng sử dụng ao hình chữ nhật lớn có diện tích trung bình từ 2,500 - 5,000 m2.

Khi hầu hết các hộ chăn nuôi chuyển sang sản xuất tôm thẻ chân trắng vào đầu những năm 2000, do dịch bệnh đốm trắng (WSSV) bùng phát khủng khiếp tấn công vào tôm sú nên loại hình ao nuôi tôm đã thay đổi đôi chút ngoài việc bổ sung các lớp lót nhựa HDPE hoặc bê tông cho ao.

Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, mô hình nuôi tôm đã bắt đầu thay đổi, bao gồm cả việc xây dựng một số ao nhỏ hơn, có diện tích từ 1,000 m2 trở xuống. Sự phổ biến của các ao mini này là phản ứng từ phía những người muốn tham gia vào lĩnh vực này nhưng họ bị hạn chế về vốn và đất đai. Ban đầu, những ao nhỏ này có dạng hình chữ nhật truyền thống, dựa trên một cấu trúc rất đơn giản đó là sử dụng tre làm khung và tấm bạt làm lớp lót. Loại ao này được phát triển bởi những người nông dân ở Madura (phía Đông Java) trong sân sau nhà họ.

Gần đây, xu hướng các ao nuôi tôm quy mô nhỏ chuyển sang những thiết kế hình tròn, điển hình là các ao có đường kính từ 5 đến 30 mét. Loại hình trang trại này phổ biến trong giới nông dân trẻ, trong khi đó chính phủ và các công ty tư nhân cũng đang tham gia phát triển loại hình ao này như một mô hình thí điểm cho thế hệ millennials (những người trưởng thành trong giai đoạn chuyển giao thiên niên kỷ - mốc thời gian từ năm 1981 đến năm 1996) và những người chăn nuôi quy mô nhỏ.

Tìm ra biện pháp tốt nhất

Một trong số những nông dân đang thử nghiệm ao hình tròn là Rizky Darmawan. Người nông dân thuộc thế hệ millennial này là người giữ chức chủ tịch Hội Nông dân nuôi tôm trẻ của Indonesia (Petambak Muda Indonesia/ PMI) đã phát triển các thiết kế ao hình tròn kể từ năm 2019 tại khu vực ao hiện có của mình ở miền Tây Nusa Tenggara (NTB). Ông lấy cảm hứng từ Erwin Budiman đến từ Medan, phía Bắc Sumatra, một ông bạn nông dân đã bắt đầu sử dụng thiết kế này vào năm 2016 và hiện là chủ tịch của Câu lạc bộ nuôi Tôm Indonesia (SCI) chi nhánh Medan.

"Chúng tôi xây dựng hai ao hình tròn đầu tiên vào năm 2019. Các ao của chúng tôi hiện đang bước sang vụ nuôi thứ 4. Ban đầu, chúng tôi quyết định xây dựng các ao hình tròn để lấp đầy dải đất hẹp còn lại trong khu vực ao của mình. Đồng thời, chúng tôi thực hiện việc này để tiến hành Nghiên cứu & Phát triển tại địa điểm của chúng tôi,” ông cho biết.

Theo Rizky, ưu điểm của thiết kế hình tròn bao gồm việc đảm bảo lưu thông nước dễ dàng, do đó chất thải được loại bỏ dễ dàng hơn qua cống trung tâm

Ông ấy cũng đang sử dụng thử nghiệm các ao tròn cho vườn ương tôm giống của mình, vì thế ông có thể dễ dàng chuyển cá con sang các ao lớn để chăn nuôi thương phẩm.

Hiện ông đang vận hành 10 ao nuôi hình tròn có đường kính trung bình là 20 mét (diện tích sản xuất 3,140 m2). Ông cũng đang xây dựng thêm 35 đơn vị nữa ở hai địa điểm khác nhau.

Nhìn chung, các ao nuôi tôm hình tròn được xây dựng bằng lưới thép hoặc tre làm khung và sử dụng nhựa HDPE làm lớp lót bên trong. Tuy nhiên, cũng có một số người họ người sử dụng kết hợp thép mạ kẽm và sợi thủy tinh. Đường kính của các ao thay đổi từ 3 mét tới 30 mét.

Do đặc tính tương đối mới mẻ của chúng nên các ao hình tròn vẫn chưa được người sản xuất tôm am hiểu đầy đủ và làm chủ một cách hoàn toàn và đó vẫn còn nhiều điều cần phải học hỏi và điều chỉnh trong quá trình quản lý hệ thống ao này.

Trong quá trình nghiên cứu của mình, Rizky không áp dụng một hệ thống tiêu chuẩn nào cả mà thay vào đó ông đã thử nghiệm các phương pháp sản xuất khác nhau. "Chúng tôi chỉ quyết định thử nó rồi xem kết quả ra sao. Nếu nó hiệu quả thì chúng tôi có thể gia tăng hiệu quả của các ao nuôi của mình," ông giải thích.

Theo Rizky, những ưu điểm của thiết kế hình tròn bao gồm khả năng đảm bảo lưu thông nước dễ dàng, do đó chất thải dễ dàng được loại bỏ hơn qua cống trung tâm. Ngoài ra, kích thước ao nhỏ hơn giúp dễ dàng kết hợp với các công nghệ mới chẳng hạn như công nghệ tuần huàn RAS (hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn).

Trong khi đó, thách thức là các kỹ thuật viên của trang trại phải cố gắng tập trung vào một số loại hình ao khác nhau trong một khu vực. Trong khi một héc-ta truyền thống chứa  được từ 2 - 4 ao hình chữ nhật còn với các ao hình tròn thì với diện tích như vậy nó có thể chứa từ 10 - 20 đơn vị, có khả năng tốn nhiều công sức hơn.

Ông lưu ý: “Tuy nhiên, bởi vì ao được chia thành nhiều đơn vị nên hoạt động chăn nuôi tôm trở nên tương đối an toàn, vì khi dịch bệnh xảy ra sẽ có ít tôm bị ảnh hưởng hơn. Vì vậy, chúng tôi có thể giảm thiểu rủi ro”.

Risky nhận thức được rằng điều quan trọng nhất là phải duy trì lợi nhuận. Thay vì áp dụng công nghệ mới nhất ngay lập tức vào các ao hình tròn của mình thì ông thực sự bắt đầu với cấp độ thấp hơn cho đến khi ông tìm ra được hệ thống tối ưu. Ông vẫn chưa đầu tư vào số hóa và công nghệ liên quan đến Internet vạn vật (IoT).

Do đó, hiện ông đang thả nuôi tôm với mật độ 150 con (tôm giống)/ m2. Với mật độ này, mục tiêu sản lượng mà ông muốn đạt được là 1,3 tấn/ ao trong 90 ngày (tương đương 41 tấn/ héc-ta).

Để quản lý chất lượng nước, ông đã áp dụng các biện pháp tương tự như các biện pháp đối với các ao thông thường đó là thay nước hàng ngày nếu cần thiết. Ông cũng đã thực hiện một nghiên cứu nhỏ để tìm ra giải pháp tốt nhất để duy trì nồng độ oxy hòa tan, thử nghiệm nhiều cách kết hợp khác nhau bao gồm việc sử dụng 1 bánh guồng cùng với 1 quạt thổi, 2 bánh guồng với 1 quạt thổi và 1 bánh guồng với 1 vòi phun nano (nanojet).

Ông nói: “Cho đến nay, bằng cách sử dụng một bánh guồng, chúng tôi có thể thu gom bùn ở giữa ao. Vì vậy, chúng tôi sẽ sử dụng tiếp biện pháp này trong vụ nuôi tiếp theo."

Việc quản lý thức ăn cũng gần giống như trong các ao lớn và ông sử dụng các máy cho ăn tự động Profeeder (được sản xuất bởi Tổ chức Cải tiến Nuôi trồng Thủy sản Indonesia) để đạt được năng suất và hiệu quả. Bằng hệ thống này, ông có thể nhận được một hệ số chuyển đổi thức ăn trung bình (FCR) dưới 1.2.

Rizky dự đoán rằng các ao hình tròn sẽ ngày càng trở nên phổ biến hơn ở Indonesia. Một số người nông dân là thành viên của PMI  cũng đã bắt đầu phát triển nó. Ông thừa nhận rằng ông đã được hỏi ý kiến của mình nhiều lần về những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng hệ thống này.

“Những nông dân khác đã phát triển thiết kế của riêng họ thứ mà tôi cũng đã đến thăm và học hỏi,” ông nói.

Central Proteina Prima (CPP) hợp tác với những nông dân có nguồn lực hạn chế (chẳng hạn như bị hạn chế nguồn vốn và đất đai) và hiện đang ủng hộ các thiết kế ao hình tròn. Ảnh: Nonot Tri Waluyo

Cơ hội cho những người nông dân sản xuất ở quy mô nhỏ

Hệ thống ao tròn cũng được khởi xướng bởi Nonot Tri Waluyo, đây là một nhà sản xuất tôm đến từ một công ty thủy sản tổng hợp Central Proteina Prima (CPP). Thông qua công ty của mình, ông nhắm đến những người nông dân có nguồn lực hạn chế về vốn và đất đai để biến họ trở thành đối tác của mình. Theo ông, những ưu điểm của mô hình ao tròn bao gồm hiệu quả sử dụng đất, thiết thực hơn, chi phí thấp hơn và phù hợp với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ. Ông cũng lưu ý rằng những ao này có thể được xây dựng chỉ trong vòng 48 giờ.

Các ao tròn do các đối tác của CPP sở hữu có đường kính bắt đầu từ 15 mét. Tuy nhiên, theo Nonot thì hầu hết các ao có đường kính từ 28 - 30 mét. Để đạt hiệu suất tối ưu thì một ao có đường kính 30 mét cần ba bánh guồng để duy trì nồng độ oxy hòa tan.

Mật độ thả nuôi đối với hệ thống này có thể được đẩy lên tới 200 con giống/ m2, nhưng tất nhiên là việc quản lý trang trại sẽ khó khăn hơn khi ở mật độ thả nuôi cao hơn. Theo Nonot, đối với quy mô hộ gia đình thì mật độ  từ 100 - 125 con tôm giống/ m2 khá có lợi và để đạt được tỷ lệ sống sót của tôm từ 80 - 90% là điều thiết thực.

Nonot tin rằng việc quản lý chất lượng nước trong các ao hình tròn dễ dàng hơn, vì chất thải hữu cơ có thể được tập trung ở giữa ao và dễ dàng được loại bỏ thông qua cống trung tâm. Vì vậy, “phạm vi bơi lội” dành cho tôm cũng ngày càng rộng rãi hơn. Tình trạng này có thể làm giảm mức độ căng thẳng của tôm và giúp chúng khỏe mạnh hơn.

Nonot và CPP đã khởi xướng ao nuôi tôm hình tròn này ở nhiều vùng khác nhau, bao gồm Lampung, miền Trung Java, miền Đông Java và miền Tây và miền Đông Nusa Tenggara.

Các ao nuôi tôm hình tròn được vận hành như một phần của Dự án Chăn nuôi tôm của thế hệ Millenial, Situbondo, miền Đông Java. Ảnh: MMAF

Nghề nuôi tôm của thế hệ millennial (MSF)

Dự án nuôi tôm bằng mô hình ao tròn cũng đã được phát triển bởi Bộ thủy sản (MMAF) thông qua một số trung tâm nghiên cứu của mình. Kiểu ao này được xây dựng như một dự án thí điểm và làm cơ sở học tập cho những nông dân trẻ muốn tham gia vào nghề nuôi tôm. Do đó, dự án được gọi là Nghề nuôi tôm của thế hệ Millennial (MSF). Nó được khởi xướng bởi MMAF và Digifish Network - một mạng lưới khởi nghiệp nghề cá của Indonesia.

Thông qua MSF, chính phủ đang nhắm mục tiêu hướng đến sự phát triển của những nông dân trẻ ở Indonesia, họ được kỳ vọng trở thành một trong những người đóng góp cho sản lượng tôm quốc gia và có thể giúp gia tăng giá trị xuất khẩu tôm của đất nước lên tới 250% giữa năm 2020 (khi ngành này trị giá 2 tỷ đô la) và năm 2024.

Các trang trại thí điểm của MSF sử dụng các công nghệ mới nhất (chẳng hạn như công nghệ số hóa và Internet vạn vật) để gia tăng tốc độ ra quyết định và giảm thiểu thiệt hại nếu dịch bệnh bùng phát.

Một trong những ứng dụng công nghệ mới nhất đang được thử nghiệm tại các cơ sở MSF là Bong bóng mịn hỗn hợp oxy (Oxy-Mix), được sản xuất bởi Wendy Prabowo - một nhà nghiên cứu tại UTP ở miền Đông Java. Chúng có khả năng tạo ra oxy từ hai nguồn, đó là từ không khí tự nhiên và oxy lỏng. Sự kết hợp này có thể tạo ra oxy ở dạng nano và oxy ở dạng các bọt khí siêu nhỏ có thể duy trì nồng độ oxy trong nước đúng cách.

"MSF là một trong những chương trình nổi bật của MMAF nhằm thúc đẩy ngành nuôi tôm để cải thiện nền kinh tế địa phương. Việc lắp đặt mô hình MSF thí điểm đã được xây dựng tại hai địa điểm của Đơn vị triển khai kỹ thuật (Đơn vị Pelaksana Teknis/ UPT) của Tổng cục Nuôi trồng thủy sản, cụ thể là ở Jepara và Situbondo," Tổng giám đốc nuôi trồng thủy sản của MMAF, Slamet Soebjakto cho biết gần đây.


Chống lại tình trạng kháng kháng sinh (AMR) trong lĩnh vực chăn nuôi cá rô phi của Ai Cập Chống lại tình trạng kháng kháng sinh (AMR)… Làm thế nào để ngành chăn nuôi tôm được hưởng lợi từ các thành phần thức ăn côn trùng Làm thế nào để ngành chăn nuôi tôm…