Sử dụng probiotics trên ấu trùng cua biển
Nghiên cứu này được tiến hành để xác định hiệu quả của vi khuẩn Bacillus subtilis như một chất bổ sung trong quá trình ương ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain).
Cua giống.
Cua biển (Scylla paramamosain) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao vào được nuôi ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, diện tích nuôi cua biển ngày càng mở rộng dẫn đến nguồn giống cua biển từ tự nhiên đang giảm mạnh do việc khai thác quá mức để cung cấp cho nghề nuôi (Nyqvist, 2011). Cùng với đó, việc phát triển công nghệ trại giống cho mục đích sản xuất giống cua biển ở quy mô thương mại cũng được tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn nhất hiện nay là tỉ lệ sống của ấu trùng còn thấp (Lindner, 2005). Nhiều nguyên nhân được nêu ra như: nhiễm khuẩn từ cua mẹ và môi trường, chất lượng nước hay đặc điểm dinh dưỡng.
Kết quả từ các nghiên cứu trước đây đã chứng minh việc bổ sung probiotic khi ương ấu trùng động vật thủy sản sẽ giúp cải thiện quá trình tiêu hóa bằng cách tăng hoạt tính của enzyme, từ đó tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng của ấu trùng (Prado et al., 2010).
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tác dụng của probiotic lên sự phát triển và miễn dịch ở động vật thủy sản như cá, tôm, nhuyễn thể... nhưng có rất ít thông tin về việc ứng dụng probiotic trong quá trình ương ấu trùng cua biển.
Nghiên cứu này được thực nhiện nhằm đánh giá hiệu quả của probiotic (Bacillus subtilis) lên chất lượng nước ương, tỉ lệ sống và hoạt tính enzyme tiêu hóa của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain).
Probiotics Bacillus subtilis trên ấu trùng cua biển
Thí nghiệm được tiến hành tại trại thực nghiệm AKUATROP, Đại học Malaysia Terengganu. Cua mẹ được cắt mắt và nuôi vỗ trong hệ thống tuần hoàn với thức ăn là sò huyết. Sau khi đẻ trứng, cua được chuyển sang bể ấp 100 L và thay 100% nước hàng ngày cho đến khi trứng nở. Ấu trùng cua hướng quang mạnh sẽ được thu và sử dụng cho thí nghiệm. Nghiên cứu sử dụng nước biển có độ mặn 30 ppt, được xử lý bằng đèn UV và EDTA (10 g/m3), độ kiềm được duy trì ở mức 100-120 mg/L bằng NHCO3.
Ấu trùng cua được bố trí vào các bể composite 0.5 m3 , có sục khí đều và liên tục với mật độ 400 ấu trùng/lít. Khi cua đạt giai đoạn Zoae 4, mật độ được giảm xuống còn 50 ấu trùng/lít. Thí nghiệm được tiến hành với 2 nghiệm thức: không sử dụng probiotic (đối chứng) và sử dụng probiotic Bacillus subtilis (106 CFU/mL) được lặp lại 3 lần. Ấu trùng cua được cho ăn bằng Artemia (từ Zoae 1 đến Zoae 2 cho ăn Artemia bung dù, từ Zoae 3 cho ăn Artemia nở) và định kỳ thay 25% nước 3 ngày/lần.
Kết quả
Trong suốt quá trình thí nghiệm, nhiệt độ nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng phát triển, ít biến động mạnh giữa sáng và chiều (từ 27,6 đến 28,5oC). Giá trị pH cũng ít dao dộng và duy trì trong khoảng thích hợp 7,5 đến 7,8. Độ kiềm được duy trì thường xuyên ở mức 112 đến 115 mg/L.
Kết quả cho thấy, probiotic Bacillus subtilis có khả năng làm giảm hàm lượng TAN và nitrite trong nước ương, giúp cải thiện và duy trì chất lượng nước trong khoảng thích hợp. Việc bổ sung probiotic Bacillus subtilis (106 CFU/mL) khi ương ấu trùng cua biển cho hiệu quả cao, giúp cải thiện chất lượng nước, giảm hàm lượng TAN, nitrite và mật độ Vibrio trong nước. Probiotic Bacillus subtilis (106 CFU/mL) giúp làm tăng các hoạt tính enzyme protease, trypsin, pepsin và amylase. Tỉ lệ biến thái (40,3 đến 88,6) và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển (14,5%) khi bổ sung Bacillus subtilis (106 CFU/mL) cao hơn so với khi không sử dụng probiotic.
Trích dẫn: Trần Nguyễn Duy Khoa, 2018. Ảnh hưởng của probiotic (Bacillus subtilis) lên chất lượng nước, tỉ lệ sống và hoạt tính emzyme tiêu hóa của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54(Số chuyên đề: Thủy sản)(1): 1-8.
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao