Tôm thẻ chân trắng Chế độ cho ăn mới trong giai đoạn ươm giống giúp tôm đạt hiệu suất tốt khi thả mật độ cao

Chế độ cho ăn mới trong giai đoạn ươm giống giúp tôm đạt hiệu suất tốt khi thả mật độ cao

Author Roeland Wouters, Ph.D - Tille Van Horenbeeck, M.Sc., publish date Wednesday. April 5th, 2017

Sự quan tâm dành cho việc sản xuất tôm nhiều giai đoạn đã được đổi mới khi con giống tôm thời kì hậu ấu trùng (viết tắt PL) được thả vào mương sâu trong giai đoạn ươm 1 thời gian ngắn trước khi được thả vào ao nuôi thương phẩm. Theo kết quả báo cáo của tổ chức tôm toàn cầu OP năm 2001 khảo sát về các trại tôm giống do Harvey Persyn và Randall Aungst thực hiện: những ưu điểm chính trong việc sử dụng trại ươm là để rút ngắn chu kỳ sản xuất trong các trại giống và trong nông trại, điều tiết số lượng của con giống PL từ trại giống đến trang trại và cải thiện sự sống còn của ao giống cũ, khiến con giống PL mạnh mẽ hơn. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ sống trong ao nhìn chung tăng hơn 15% nhờ áp dụng giai đoạn ươm giống khi nuôi. 

Ở Châu Á, đặc trưng của các trại nuôi tôm chính là mức độ chuyên môn hóa cao. Một số nơi còn chuyên nuôi con giống PL đến 1 kích thước mong muốn để tránh nguy cơ tiếp xúc với các mầm bệnh tiềm ẩn trong ao. Ngoài ra, tôm giống được nuôi trong ao ươm nhìn chung thường có sự phát triển mang mạnh hơn, đó là điều kiện rất quan trọng để thích nghi với môi trường trang trại.

Tại Châu Mỹ, trại ươm được sử dụng chủ yếu trong các hệ thống sản xuất quản lý chuyên sâu để tận dụng tối đa cơ sở vật chất và an toàn sinh học. Đối với khí hậu ôn đới, hệ thống mương trong nhà sẽ được thả giống vào mùa xuân và cho phép sản xuất 2 vụ tôm 1 năm.

Thực hành cho ăn trong Trại ươm giống

Chi phí hoạt động lớn nhất của trại ươm chính là chi phí ban đầu dành cho con giống PL, vì thế tỷ lệ sống của chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận. Theo Wickins and Lee (2002), tỷ lệ sống cần đạt được là 50-70%. Điều này chỉ có thể đạt được với quy trình quản lý cẩn thận và chế độ cho ăn tối ưu.

Trong cuộc khảo sát GAA năm 2001, người nuôi tôm ở Châu Á và Châu Mỹ thường hay cho ăn ấu trùng Artemia sinh khối và áp dụng chế độ cho ăn trại ươm. Một số nhà sản xuất giống tiếp tục cho ăn tảo trong giai đoạn ươm bởi vì ngoài việc có giá trị dinh dưỡng, nó còn giúp trong việc đối phó với các chất thải chứa nitơ ở mật độ cao và tỷ lệ ăn cao.

Thử nghiệm thả mật độ cao

Gần đây, 1 chế độ ăn hoàn chỉnh dành cho tôm nuôi trong mương được phát triển bởi INVE Technologies NV đang được thử nghiệm trên tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương Litopenaeus vannamei thả mật độ cao. Chế độ ăn uống RW+ với 48% protein và 13% chất béo, được thả vào bể nuôi tôm 500-l với tần suất 4 lần/đợt. Bảng 1 cho thấy các thành phần của RW+.

Bảng 1: thành phần của chế độ ăn trong mương RW+

Trong cuộc thử nghiệm đầu tiên kéo dài 2 tuần, chế độ RW+ được so sánh với Artemia không vỏ (chưa được ấp), chế độ ăn uống thích nghi với 40% protein và 13% chất béo, và một chế độ ăn uống thương mại (Com1) với 50% protein và 10% chất béo. Mỗi chế độ được cho ăn ở mức 100%.

Hình 1. Thử nghiệm 1: tỷ lệ sống và trọng lượng không bao gồm nước của con giống PL loại L. vannamei thả với mật độ cao và cho ăn thức ăn khác nhau trong hai tuần. Giá trị trung bình của việc cho ăn bốn lần lặp đi lặp lại, thanh độ lệch chuẩn.

Hình 2. Thử nghiệm 2: tỷ lệ sống và trọng lượng không bao gồm nước của con giống PL thả với mật độ siêu cao và cho ăn thức ăn khác nhau trong ba tuần. Giá trị trung bình của việc cho ăn bốn lần lặp đi lặp lại, thanh độ lệch chuẩn.

Vật nuôi ở giai đoạn PL10 được thả với mật độ cao (25.000 / m2) và thu hoạch khi PL25. Các chế độ ăn được áp dụng 6 khẩu phần hàng ngày để tổng khối lượng cho ăn tăng dần từ 35g/tấn/ngày đến 75g/tấn/ngày. Nhiệt độ nước trong thử nghiệm trung bình là 26°C.

Trong cuộc thử nghiệm thứ 2 kéo dài 3 tuần, chế độ RW+ được so sánh với Artemia không vỏ, một chế độ ăn uống thực nghiệm (viết tắt Exp) với 38% protein và 8% chất béo, và một chế độ ăn uống thương mại (Com2) với 53% protein và 16% chất béo. Vật nuôi được thả với mật độ siêu cao (45000/m2) khi đang trong giai đoạn PL2 và thu hoạch khi trong giai đoạn PL30. Tỷ lệ cho ăn tăng từ 45g/tấn/ngày cho PL10 đến 120g/tấn/ngày cho PL30. Nhiệt độ nước được duy trì ở 28°C. Tỷ lệ trao đổi nước hàng ngày lên đến 50% được áp dụng trong cả hai cuộc thử nghiệm để tránh các vấn đề về chất lượng nước.

Tác dụng của Artemia

Artemia không vỏ chìm nhanh và có kích thước là 250μm vì vậy không phù hợp cho ấu trùng giai đoạn mysis ăn. Tuy nhiên, chúng lại là thức ăn tuyệt vời cho sinh vật đáy PL và có thể được sử dụng để thay thế một phần hoặc toàn bộ ấu trùng Artemia. Các con Artemia không vỏ thực chất chính là phôi của Artemia với năng lượng nhiều hơn 30-50% so với ấu trùng mới nở và chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn khi dùng làm thức ăn cho vật nuôi. Tỷ lệ sống khi làm thử nghiệm cho ăn Artemia là 89% trong thử nghiệm 1 và 98% trong thử nghiệm 2 (hình 1 và 2) 

Hiệu suất tốt từ các sản phẩm Artemia chính là nhờ các giá trị dinh dưỡng lưu giữ trong nó sau khi sấy khô. Nó chứa mức protein hòa tan và carbohydrates rất thấp so với các chất nhân tạo. Tuy nhiên, như kết quả của thí nghiệm 2 khẳng định, tăng trưởng nói chung chỉ ở mức tương đối tốt, có thể là do mức độ tương đối thấp của axit béo thiết yếu n-3.

Hình 3. Tổng sản lượng sinh khối thu được trong thí nghiệm 2. Giá trị trung bình của bốn lần cho ăn lặp đi lặp lại.

Chế độ cho ăn trong mương và kết quả

Hiệu suất của RW+ nói chung là đạt tiêu chuẩn của sản phẩm Artemia. Trong thí nghiệm 1, tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng tương tự nhau với cả hai chế độ ăn. Trong thí nghiệm 2, tỳ lệ tồn tại bằng RW+ thấp hơn so với Artemia, nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn. Trong mọi trường hợp, tỷ lệ sống với chế độ RW+ cao hơn khá nhiều so với mức độ quan trọng đặc trưng cho khả năng sinh lời. Sinh khối thu được cuối cùng là 1,7kg/tấn (Hình 3) tương tự ở cả 2 chế độ ăn RW+ và Artemia không vỏ.

So sánh với 2 phương pháp Com1 và Com2, chế độ RW+ mang lại tỷ lệ sống tương tự và tỷ lệ tăng trưởng cao hơn đáng kể. Vì thế, tôm bột ươm được nuôi bằng chế độ RW+ có kích thước to lớn hơn những con tôm được nuôi bằng phương pháp khác. Tổng sinh khối đo được trong lần thử nghiệm thứ 2 áp dụng chế độ ăn RW+ gấp 2 lần so với chế độ Com2. Hiệu quả của RW+ khi thả tôm mật độ siêu cao là cực kỳ lớn. Thông thường, bể ươm thường được thả với tỷ lệ 500-5000PL/m2 để đạt được tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được. 

Chế độ ăn uống thích nghi

Chế độ ăn uống thích nghi là 1 chế độ ăn bổ sung dành cho tôm PL nhằm giúp tăng sức chịu đựng của vật nuôi trước và trong quá trình chuyển sang ao nuôi thương phẩm. Được thiết kế để thay thế một phần thức ăn nhân tạo và đẩy mạnh cung cấp immunostimulants và vitamin, chế độ ăn uống bổ sung không duy trì tốc độ tăng trưởng tối ưu khi cho ăn ở mức 100% khẩu phần. Điều này đã được khẳng định bởi tốc độ tăng trưởng trung bình thu được với sản phẩm này trong thí nghiệm 1. 

Kết luận

Trong các thử nghiệm, một chế độ ăn mới được phát triển trong mương độc lập được thiết kế để sử dụng trong các hệ thống mương bán thâm canh, thâm canh, hoặc siêu thâm canh là chế độ ăn thức ăn khô đầu tiên được giới thiệu đảm bảo hiệu suất tốt ở mật độ lên tới 45.000/m2. Trong việc giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trại sản xuất tôm giống, phát hiện này là một bước quan trọng trong việc áp dụng thành công giai đoạn ươm giống trong sản xuất tôm, đáp ứng được sự mong đợi của người nuôi tôm sẵn sàng trả giá cao cho tôm giống bột khỏe mạnh và lớn hơn khi chúng sẽ mang lại hiệu suất cao khi đem nuôi tôm thương phẩm.


Related news

giai-phap-quan-ly-chat-thai-huu-co-mo-hinh-nuoi-tom-tren-ao-day-dat Giải pháp quản lý chất… cong-nghe-moi-da-chung-minh-hieu-qua-cho-nguoi-nuoi-tom-ems-hit Công nghệ mới đã chứng…