Những hệ thống nuôi tôm thâm canh ở Châu Á (Phần 1)
Những bệnh cũ và mới nổi do virus và vi khuẩn đã gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp tôm nuôi, nên một vài năm trước, nhiều nước ở Châu Á đã bắt đầu phát triển và sử dụng công nghệ biofloc, hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS) và/hoặc xử lý nước đầu vào cho các hoạt động nuôi trồng và xử lý nước thải như là các biện pháp an ninh sinh học để phòng, chống dịch bệnh.
Hình 1/ Sơ đồ hệ thống nuôi ao đơn và quản lý kênh chung ở trang trại nuôi tôm Dipasena, Indonesia.
1/ Các hệ thống biofloc và RAS giúp kiểm soát bệnh ở tôm nuôi
Trước năm 1994, các bệnh nghiêm trọng trên tôm nuôi đều có nguồn gốc từ vi khuẩn. Tuy nhiên, sau đó ở Châu Á xuất hiện nhiều bệnh nghiêm trọng trên tôm do virus gây ra như: virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV), virus gây bệnh đầu vàng (YHV), virus gây hoại tử cơ (IMNV) cùng với các bệnh khác. Điều này đã làm thay đổi thiết kế và điều hành ở một số trang trại nhằm ngăn ngừa sự bùng phát và lây lan dịch bệnh
Gần đây hơn, các vụ bùng phát dịch WSSV trên tôm thẻ chân trắng Ấn Độ (Penaeus indicus) nuôi tại Ả-rập Xê-út đã cung cấp thêm các bằng chứng rằng cần phải tăng cường các biện pháp an ninh sinh học. Kể từ năm 2009, các vụ bùng phát của một loại bệnh mới do vi khuẩn gây ra - Hội chứng hoại tử gan tụy cấp (AHPNS) - bắt đầu từ Trung Quốc và lây lan sang Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, sau đó là ở Mexico vào năm 2013 và đến Trung Mỹ năm 2015 - đã gây thiệt hại hàng tỉ USD. Các vụ dịch bệnh khác ở Brazil vào năm 2016, dịch WSSV trên tôm sú (Penaeus monodon) nuôi vào đầu năm 2017 ở Úc đã cung cấp thêm các bằng chứng về sự cần thiết phải thay đổi các hệ thống sản xuất tôm.
Vì những bệnh cũ và mới nổi do virus và vi khuẩn đã gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp tôm nuôi, nên một vài năm trước, nhiều nước ở Châu Á đã bắt đầu phát triển và sử dụng công nghệ biofloc, hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS) và/hoặc xử lý nước đầu vào cho các hoạt động nuôi trồng và xử lý nước thải như là các biện pháp an ninh sinh học để phòng, chống dịch bệnh.
Bài viết này đề cập đến các ví dụ về các hệ thống biofloc và hệ thống nuôi tôm tuần hoàn khác nhau đã được sử dụng ở Châu Á trong hai thập kỷ qua, cũng như triển vọng của những công nghệ này.
2/ Ao đơn và quản lý kênh chung
Ở Indonisia, công ty PT Dipasena Citra Darmaja (DCD) được thành lập vào năm 1987 và phát triển 16.250 ha đất đầm lầy ở tỉnh Lampung, miền Nam Sumatra thành trang trại nuôi tôm tích hợp với hơn 18.000 ao, diện tích mỗi ao là 0,2 ha.
Trang trại hoạt động dưới cái gọi là hệ thống chia sẻ lợi nhuận “plasma”, mỗi gia đình có đủ khả năng điều hành hai ao 0,2 ha với sự hỗ trợ quản lý từ DCD. Vào năm 1995, công ty mở rộng và phát triển khu đất liền kề khoảng 124.000 ha. Hơn 7.700 ao, diện tích mỗi ao từ 0,25 - 1,80 ha được xây dựng với tổng diện tích gần 3.800 ha.
Trang trại được thiết kế và xây dựng dựa trên sự điều hành ao đơn và hệ thống quản lý kênh chung. Các ao được xếp thành hàng với các kênh cấp và thoát nước ở các phía đối diện. Các kênh thải chính được xây dựng không chỉ để thoát nước từ các ao nuôi, mà chúng còn được sử dụng làm đường thủy cho mục đích quản lý hậu cần bằng thuyền cao tốc và sà lan. Nguồn nước được lấy trực tiếp từ vùng biển ven bờ, nơi mà nước thải được thải vào thượng nguồn các con sông lớn gần sát các trang trại. Hoạt động sản xuất sử dụng các con kênh và hệ thống ao đơn để sản xuất tôm sú (Penaeus monodon) đã thành công cho đến khi các mầm bệnh virus mới nổi, đặc biệt là WSSV xảy ra vào giữa những năm 1990.
Hầu hết các trang trại nuôi tôm ở các nước, trong đó có Indonesia, đã bắt đầu điều chỉnh cách hoạt động, có thêm các ao trữ nước để xử lý nước nuôi trước khi sử dụng. Tuy nhiên, công ty Dipasena vẫn tiếp tục hoạt động bằng hệ thống ao nuôi đơn, dẫn đến sản lượng nuôi đạt được ở mức thấp và không bền vững.
Khi quá trình quản lý mới được tiến hành vào năm 2006, hệ thống ao nuôi đơn được thiết kế lại thành các mô-đun với 20% ao chứa ở phía kênh cấp chính. Việc thực hiện hệ thống mô đun này đã làm hồi sinh hoạt động sản xuất, dẫn đến việc sản xuất ổn định, áp dụng trao đổi nước tối thiểu và chỉ sử dụng nước đã được xử lý trong các ao nuôi. Tuy nhiên, mô hình này không có hệ thống xử lý nước thải ra từ ao nuôi trong suốt quá trình vận hành và thu hoạch. Vào thời điểm đó, cơ sở này cũng chuyển sang nuôi một loài mới, tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei).
Hình 2. Sơ đồ một mô-đun của trang trại nuôi tôm Dipasena được thiết kế lại.
3/ Ao đơn có hệ thống xử lý nước thải
Đây là mô hình ở trang trại nuôi tôm PT Sekar Abadi Jaya (SAJ) ở miền Tây Sumbawa - Indonesia, nơi nước biển được lấy trực tiếp vào các ao nuôi. Trang trại có hệ thống xử lý chất thải hiệu quả, khởi đầu bằng ao lắng và các kênh nước chảy (raceway). Chất thải được xử lý qua hai giai đoạn (đã được Bộ Môi trường Indonesia kiểm tra và phê duyệt) trước khi thải ra biển.
Hình 3. Sơ đồ một mô-đun có hệ thống xử lý nước thải của SAJ ở Sumbawa.
4/ Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn
Ở Indonesia, trang trại nuôi tôm P.T. Central Pertiwi Bahari (CPB) ở Lampung, Nam Sumatra (thuộc tập đoàn C.P) hoạt động trên cơ sở mô-đun, mỗi mô-đun có 40 - 60 ao hình vuông, mỗi ao có diện tích 0,5 ha, có ao trữ nước và ao xử lý chất thải riêng, có một kênh tuần hoàn từ ao sản xuất sản xuất chảy vào ao lắng. Diện tích mặt nước của ao trữ/ao lắng từ 20 - 25% diện tích mặt nước ao nuôi. Sự bố trí này là một yếu tố có thể xảy ra khi bệnh dịch bùng phát sau khi cơ sở khởi động. Hệ thống trang trại được thiết kế lại với sự trao đổi nước tối thiểu hoặc không trao đổi nước ở một thời điểm nào đó của chu kỳ nuôi.
Hình 4. Sơ đồ một mô-đun của hệ thống RAS của công ty CPB, Indonesia.
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao