Đặc Điểm Của Heo Rừng
I. Hình dáng
Heo rừng cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài, nhỏ và móng nhọn, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, mũi rất thính và khỏe, da lông màu hung nâu, hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn... Vai thường cao hơn mông, đuôi nhỏ, ngắn, chỉ dài đến khoeo. Con đực có răng nanh phát triển, con cái có 2 dãy vú, mỗi dãy 5 núm vú phát triển và nổi rõ.
II. Sinh trưởng phát triển và sinh sản
Heo rừng thường đẻ mỗi năm 2 lứa, mỗi lứa 5-10 con, lứa đầu (con so) 3-5 con, lứa sau (con rạ) đẻ nhiều hơn (7-10 con). Trọng lượng heo sơ sinh bình quân 0,5-0,9 kg/con. Heo con có bộ lông sọc dưa (vệt lông màu vàng chạy dọc thân trên nền da màu đen hoặc nâu). Khi heo con trên 3 tháng tuổi, các vệt sọc dưa này không còn nữa. Trọng lượng bình quân lúc trưởng thành, con đực nặng 80- 100 kg, con cái nặng 50-70 kg...
Heo rừng 7-8 tháng tuổi, thể trọng 30-40 kg (với heo cái có thể cho phối giống, heo đực giống có thể cho phối giống trễ hơn 1 -2 tháng). Thời gian mang thai cũng như heo nhà (khoảng 114-115 ngày). Thời gian đẻ (từ con đầu đến con cuối) 1 - 2 giờ. Quá trình đẻ diễn ra tự nhiên, không cần sự giúp đỡ hoặc can thiệp của con người.
III. Môi trường sống
Trong đời sống hoang dã, heo rừng ít sống trong rừng sâu mà tập trung sống ở các khu rừng chồi, nơi ao hồ, đầm lầy sông suối nhất là gần các khu vực trồng hoa màu, cây trái. Ban đêm chúng tìm đến những nơi này để đào bới thức ăn.
Heo rừng có bản tính phá phách, được xem là kẻ thù của nhà nông. Chúng sinh sản nhanh, khi đi tìm thức ăn lại kéo theo đàn đông đúc.
IV. Bản tính của heo rừng
Ở các nước phương Tây, thậm chí ngay ở Malaysia, lợn rừng có vẻ hiền lành, người có thể đến gần nó. Tuy nhiên ở Việt Nam, có lẽ do bị săn bắn quá nhiều nên chúng trở nên hung dữ, chống cự quyết liệt các đối thủ, thậm chí gây trọng thương cho thợ săn khi không còn đường chạy trốn.
Lợn rừng Việt Nam mới được bắt từ rừng về rất nhạy cảm. Hễ có người lạ đến chúng “dán mắt” vào đối phương và luôn ở tư thế phòng thủ. Nếu cảm thấy không ổn, chúng bỏ chạy, sẵn sàng bay qua tường rào cao có khi đến 2m, lách cửa, chui chân tường hổng, lao cả đầu vào tường, rào đến mức xẩy ra tai nạn và nếu là lợn đực chúng có thể quay lại đánh trả người... Thậm chí có những con lợn đực mặc dù đã được nuôi lâu, nhưng khi thấy người lạ đến, đều xông tới tấn công. Trong thực tế đã xẩy ra một số tai nạn cho người nuôi loại lợn này.
Lưu ý:
-Khi bắt, vận chuyển lợn rừng cần phải nhốt trong rọ, cũi thật chắc chắn. Chuồng phải có tường, rào, cửa ra vào bao quanh, ít nhất cũng là lưới thép B40, cao không dưới 2,5m, không để các kẽ hở lớn... Khi ra vào cần cài, khóa cửa kỹ lưỡng. Nền chuồng sân chơi không để quá rộng để con lợn có đà nhảy. Khi tiếp xúc với chúng ta cần ở vị trí, tư thế an toàn, như đứng sau hàng rào, bờ tường, đi ủng, găng tay...
-Người chăn nuôi nên cầm theo các loại thức ăn (rau, củ quả...) để dỗ dành nó. Luôn thể hiện sự thân mật, không thay đổi quá nhiều về quần áo, giọng nói, cách thức tiếp xúc... Môi trường xung quanh cũng phải tương đối ổn định, thí dụ chỉ cần để trâu bò đi ngang qua là cũng có thể gây hoảng loạn cho lợn.
-Lợn rừng rất thích và có khả năng đào bới. Một khu bãi cỏ rậm rạp có cả những loại cây có gai cũng sẽ bị cày xới lên, cỏ cây nhỏ bị ăn sạch sau một vài ngày lợn đến. Vì thế đất, nền trong khu chăn nuôi phải không nhiễm chất độc hóa học, vi khuẩn... Lợn thường gặm, cà mình vào cây để gãi ngứa, đái vào gốc... làm cây chết. Vì thế để bảo vệ cây ta phải vây lưới sắt xung quanh gốc cây cao ít nhất 1m và cách gốc ít nhất 50 cm. Lợn rừng bơi khá tốt qua sông suối. Vì vậy nuôi lợn giữa đảo nhỏ xung quanh là sông, suối để làm hàng rào tự nhiên là không thể được.
V. Tập tính cộng đồng của heo rừng
Cũng giống như đa phần các loại lợn khác, và kể cả trong tự nhiên, trừ lợn đực phối giống hoặc lợn mới đẻ, lợn rừng thích sống chung. Mùa rét chúng có thể nằm sát và chồng lên nhau cho ấm. Nuôi chung làm lợn bớt sợ hãi, tranh nhau ăn. Tuy nhiên nuôi nhiều con, khác loại quá sẽ khó đảm bảo nhu cầu riêng cho từng loại lợn. Lợn thường chạy theo nhau. Khi một con thoát chuồng, ta sẽ khó lùa quay trở lại chuồng. Ta có thể thả luôn cả nhóm lợn ra, con lợn thoát chuồng sẽ nhập đàn và ta dễ lùa cả về.
Trừ trường hợp lợn đực giống, những cá thể khác ổ/chuồng khi nhốt chung với nhau có thể đánh nhau nhưng không đáng kể.
Cũng như các loại lợn bản địa, lợn con thường núp sau lưng mẹ khi có người lạ đến, hoặc muốn bắt chúng. Khi lợn con chạy trốn, chúng chạy theo nhau và lợn mẹ cũng chạy theo để bảo vệ. Vậy nên khi muốn bắt con ta phải tách mẹ chúng ra, tránh để lợn mẹ đánh người và dẫm chết con... Hiện tượng mẹ nằm đè lên con chưa được thấy ở lợn rừng, như từng xẩy ra với các loại lợn công nghiệp. Tuy nhiên đã xẩy ra trường hợp, vì rơm độn trong chuồng nhiều, nên con nhỏ chui vào đó và bị con mẹ nằm lên đè chết.
-Giết con của con khác: Lợn to thường có thói quen ăn thịt lợn con của con khác. Tập tính này cũng có ngay ở các giống lợn đen vùng miền núi nước ta. Vì thế khi đẻ lợn mẹ thường tìm chỗ kín đáo, có cây cối um tùm để đẻ và dấu con. Nếu bị lộ thì lợn mẹ có thể cắp con đi nơi khác. Vì thế ta không nên nuôi chung lợn mới đẻ, hoặc khi con quá nhỏ với nhau hoặc cùng các loại lợn lớn khác, đặc biệt khi nơi nuôi chật hẹp.
Đực phối giống "đánh ghen": Cũng giống như một số loại khác, lợn rừng đực giống cũng rất "hậm hực", lồng lộn... khi đực bạn đi phối giống mà nó không được đi. Và đã xảy ra một vài vụ đực đánh nhau đến chết tại một vài cơ sở nuôi lợn rừng. Vì thế lợn đực phối giống cần ở xa nhau và không nhìn thấy nhau, đặc biệt lúc giao phối với lợn cái.
VI. Tập tính ăn uống heo rừng
Lợn rừng Việt Nam loại lớn được bắt từ rừng chỉ thích ăn những thứ thức ăn giống như nơi nó từng sống. Khi không tìm được loại đó ta nên cho lợn ăn sắn, chuối quả, mía cây... Phải thay đổi thức ăn từ từ, và tránh những thứ thức ăn lạ, nhiều đạm gây nên rối loạn tiêu hóa cho chúng. Đã xẩy ra trường hợp lợn cái sẵn sàng nhịn đói đến chết mà không ăn những thứ thức ăn mới.
VII. Tập tính sinh sản
Đối với giống lợn rừng Thái lan, kể cả miền Nam (hai mùa) và miền Bắc (bốn mùa) chúng đều đẻ quanh năm và không khác nhau đáng kể.
Khả năng huấn luyện đực giống để lấy tinh: Cho tới nay chúng tôi mới thành công trong việc huấn luyện đực nhảy thử trên giá gỗ/xi măng. Tuy nhiên lợn rừng chỉ xuất tinh khi giá nhảy là lợn thật. Kể cả khi lợn nhảy giá khi xuất hiện người lạ, chúng đều bỏ xuống.
Khi lợn được nuôi trong chuồng nền xi măng nhưng nếu có rơm rác thì lợn vẫn vơ vào chuồng để quây ổ nếu như chuồng được đặt nơi kín đáo. Tại những nơi nuôi thả rông hoặc sân chơi quá rộng, nhiều nái/ổ đẻ ở chung, thì trước lúc đẻ lợn mẹ thường tìm nơi ít người, vật qua lại, làm ổ bằng cây, cỏ mà nó tha về. Nếu nền chuồng độn cát, lợn bới cát lên tạo ổ đẻ. Ổ này nếu mưa, lợn con có thể chết. Ở những chuồng có nền xi măng, không rải rơm rạ, cây lá thì lợn vẫn đẻ. Để an toàn ta nên lót ổ cho lợn bằng rơm cỏ sạch. Nền chuồng nên là gạch men chống trơn, lợn không trượt, vệ sinh dễ để lợn con không liếm phải các chất bẩn. Nhìn chung lợn rừng nuôi con hệt như các giống lợn đen miền núi, hoặc lợn ỉ. Hơn thế lợn rừng có thể cắp con đi nơi khác khi có động, hoặc cắp con vào ổ nếu lợn con ở xa. Một điểm đặc biệt hơn lợn mẹ luôn biết tránh, hẩy lợn con ra khỏi vị trí nó định nằm, nhờ thế không đè lên con.
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao