Tin thủy sản Giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi cá da trơn - Phần 2

Giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi cá da trơn - Phần 2

Author 2LUA.VN biên dịch, publish date Wednesday. April 28th, 2021

Giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi cá da trơn - Phần 2

Thảo luận

Chế độ ăn có thành phần chủ yếu từ bột đậu nành (SBM) thường được coi là tiêu chuẩn trong ngành cá nheo Mỹ, còn chế độ ăn như vậy được coi là có chất lượng “cao”. Tuy nhiên, các nguồn protein khác ít tốn kém hơn (chẳng hạn như CSM) thường được sử dụng để thay thế một phần cho SBM. Dựa trên dữ liệu hiện tại, có vẻ như CSM có thể thay thế ít nhất một nửa hàm lượng SBM trong khẩu phần ăn của cá da trơn mà không ảnh hưởng tiêu cực gì đến năng suất của cá (Robinson 1991; Robinson và Li 1994, 2008).

Nghiên cứu này không được thiết kế để so sánh các chế độ ăn có nguồn gốc từ SBM và CSM, mà là để đánh giá hàm lượng protein trong chế độ ăn phù hợp bằng cách sử dụng chế độ ăn chất lượng “thấp hơn” có nguồn gốc từ CSM và thức ăn gluten ngô. Tuy nhiên, có thể rút ra một số suy luận về việc sử dụng CSM trong khẩu phần ăn của cá nheo Mỹ có thể hấp dẫn. Có nghĩa là dữ liệu về chế độ ăn chứa ít protein, CSM và gluten nói chung đều tán đồng với các nghiên cứu trước đó rằng CSM có thể được sử dụng ở hàm lượng khá cao trong khẩu phần ăn được cân bằng hợp lý dành cho cá nheo Mỹ (Robinson 1991; Robinson và Li 1994, 2008) .

Về mục tiêu chính, hồi quy tuyến tính cho thấy sự cải thiện chung về mức tăng trọng và FCR khi protein trong khẩu phần ăn tăng lên. Tuy nhiên, các thí nghiệm riêng lẻ cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể về mức tăng trọng của cá được cho ăn 22% protein trong khẩu phần ăn và những con cá được cho ăn với hàm lượng protein cao hơn; Ngoài ra, FCR không khác biệt đáng kể giữa các nhóm cá được cho ăn 20–28% protein trong khẩu phần ăn. Những dữ liệu này tương tự với những dữ liệu từ một nghiên cứu trước đây về chế độ ăn chứa ít protein dành cho cá da trơn (Robinson và Li 1997). Dựa trên mức tăng trọng và FCR, có vẻ như khẩu phần ăn chứa ít protein như mức 22% có thể là phù hợp đối với cá nheo Mỹ.

Tuy nhiên, năng suất thân thịt và thịt phi lê thường giảm xuống khi cá da trơn được cho ăn chế độ ăn chứa ít protein hơn. Điều này là do sự gia tăng đáng kể chất béo trong cơ thể thường được quan sát thấy ở cá được cho ăn khẩu phần ăn cá chứa ít hơn 28% protein trong khẩu phần (Robinson và Li 1997). Tuy nhiên, Nghiên cứu 3 cho thấy không có sự khác biệt về mặt thống kê nào đối với chất béo trong cơ thể ở cá được cho ăn các chế độ ăn khác nhau do có sự khác biệt cao giữa các ao. Cá được cho ăn chế độ ăn chứa ít protein hơn thường có xu hướng có nhiều chất béo hơn trong cơ thể.

Xem xét tác động tiêu cực đến chất lượng sản phẩm nếu  hàm lượng protein trong khẩu phần quá thấp thì có thể phải thận trọng khi cho ăn khẩu phần chứa không ít hơn 28% protein. Tuy nhiên, nếu giá cả thức ăn tiếp tục tăng còn giá cá không thay đổi thì có thể cần đảm bảo những thay đổi rõ rệt hơn về hàm lượng protein trong khẩu phần ăn của cá.

Hạt ngô từ lâu đã được coi là một thành phần cần thiết trong thức ăn chăn nuôi cá da trơn chủ yếu vì nói chúng nó là một nguồn tinh bột có giá cả hợp lý cần thiết để làm cho thức ăn có độ nổi và nó cũng là một nguồn cung cấp năng lượng tương đối rẻ. Tuy nhiên, với sự tăng giá mạnh mẽ của giá ngô trong thời gian gần đây khiến người ta quan tâm đến việc giảm hàm lượng ngô được sử dụng trong khẩu phần ăn của cá da trơn.

Dữ liệu từ nghiên cứu về việc sử dụng ít ngô trong khẩu phần ăn của cá chỉ ra rằng ngô có thể giảm xuống thấp khoảng 7.5% trong khẩu phần ăn mà không làm giảm đáng kể mức tăng trọng. Tuy nhiên, FCR tăng lên đối với cá được cho ăn khẩu phần ăn có chứa ít hơn 15% ngô. Độ nổi trung bình của các khẩu phần ăn đã giảm bớt do hàm lượng ngô giảm với các giá trị 89.7%, 81.3%, 52% và 30.8% tương ứng với khẩu phần ăn chứa 25%, 15%, 7.5%, 0% ngô. Có vẻ như lượng hạt ngô không được giảm xuống dưới 15% trong khẩu phần ăn khi sử dụng các khẩu phần chủ yếu làm từ CSM và thức ăn có gluten ngô.

Cá da trơn nhìn chung phát triển tốt khi được cho ăn chế độ ăn chất lượng cao có chứa ít nhất là 24% protein. Tuy nhiên, khi hàm lượng protein trong chế độ ăn giảm xuống thì chất béo trong cơ thể tăng lên, điều này thường làm giảm năng suất chế biến. Một giải pháp khả thi cho vấn đề này là bắt đầu cho cá ăn chế độ ăn chứa ít protein rồi sau đó kết thúc bằng cách cho cá ăn theo chế độ ăn có hàm lượng protein cao hơn trong một khoảng thời gian nhất định trước khi thu hoạch.

Dựa trên dữ liệu từ nghiên cứu này, có vẻ như phương pháp tiếp cận này có thể khả thi vì đã có sự gia tăng 2.5% năng suất thịt phi lê đối với cá bắt đầu từ chế độ ăn chứa 24% protein rồi sau đó cho ăn chế độ ăn chứa 32% protein trong 60, 90, 120 ngày hoặc chế độ ăn chứa 28% protein trong 90 ngày.

Ngoài ra, năng suất thịt phi lê tăng khoảng 1.3% đối với cá được cho ăn chế độ ăn có chứa 28% protein trong 90 ngày rồi sau đó kết thúc bằng chế độ ăn chứa 32% protein trong 90 ngày cuối cùng của mùa sinh trưởng. Mặc dù sự cải thiện về năng suất còn khiêm tốn, nhưng nó có thể có tầm quan trọng về mặt kinh tế đối với bộ máy chế biến.

Một nghiên cứu khác được thực hiện về việc sử dụng khẩu phần ăn hoàn thiện dành cho cá da trơn không cho thấy bất kỳ lợi ích nào khi sử dụng khẩu phần ăn hoàn thiện (Robinson 1994). Tuy nhiên, điều này có thể do thực tế rằng 28% protein là mức protein thấp nhất trong chế độ ăn được sử dụng trong nghiên cứu trước đó. Việc giảm năng suất chế biến thường thấy ở cá nheo Mỹ được cho ăn khẩu phần ăn có chứa 28% protein so với cá được cho ăn khẩu phần ăn chứa hàm lượng protein cao hơn thường rất nhỏ và trong một số trường hợp thì không có sự khác biệt.

Mức tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn tăng lên ở cá được hoàn thành bằng chế độ ăn giàu protein so với những con cá được cho ăn chế độ ăn chứa 24% protein xuyên suốt mùa sinh trưởng. Phản ứng này là điều bất ngờ vì các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng cá da trơn phát triển tốt như nhau ở chế độ ăn chứa 24% hàm lượng protein so với cá được cho ăn khẩu phần có hàm lượng protein cao hơn (Li và Lovell 1992a, b; Robinson và Li 1993).

Tuy nhiên, điều này có thể được giải thích bởi thực tế rằng chế độ ăn được sử dụng trong các nghiên cứu trước đó có chế độ ăn chất lượng cao hơn so với chế độ ăn chứa 24% protein được sử dụng trong nghiên cứu này. Mặc dù chúng tôi không có thành phần chính xác của công thức độc quyền mà chúng tôi đã sử dụng nhưng chúng tôi biết rằng công thức đó chứa hàm lượng cao gluten ngô và không chứa protein động vật.

Kết luận

Dựa trên mức tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn, cá nheo Mỹ có thể được cho ăn khẩu phần có chứa ít nhất là 22% protein; tuy nhiên, chất béo trong cơ thể thường tăng lên và năng suất chế biến thường giảm xuống đối với cá được cho ăn khẩu phần ăn có chứa ít hơn 28% protein.

Giảm lượng hạt ngô xuống dưới 15% trong khẩu phần ăn đã làm tăng FCR ở cá nheo Mỹ được cho ăn khẩu phần ăn có thành phần chính từ CSM và gluten. Độ nổi của khẩu phần ăn cũng có thể bị giảm khi tỷ lệ hạt ngô được hạ xuống mức thấp.

Bắt đầu nuôi cá nheo Mỹ bằng chế độ ăn chứa 24% protein rồi cho ăn chế độ ăn chứa nhiều protein hơn (28% hoặc 32%) trong 60 đến 90 ngày trước khi thu hoạch dường như là một chiến lược hợp lệ để duy trì chất béo trong cơ thể và năng suất chế biến nằm trong phạm vi chấp nhận được.


Cá da trơn lai mang lại ưu điểm về hiệu suất cho ngành cá da trơn Hoa Kỳ Cá da trơn lai mang lại ưu điểm… Giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi cá da trơn - Phần 1 Giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi…