Hướng dẫn nuôi trồng thủy sản tuần hoàn - Phần 6
Chương 3: Các loài cá trong tuần hoàn
Một hệ thống tuần hoàn là một công việc tốn nhiều chi phí xây dựng và vận hành. Có sự cạnh tranh trên thị trường cá và sản xuất phải hiệu quả để kiếm lợi nhuận. Do đó, việc lựa chọn đúng loài để sản xuất và xây dựng một hệ thống hoạt động tốt là rất quan trọng. Về cơ bản, mục tiêu là bán được cá với giá cao và đồng thời giữ chi phí sản xuất ở mức thấp nhất có thể.
Nhiệt độ nước là một trong những thông số quan trọng nhất khi xem xét tính khả thi của phương thức chăn nuôi cá vì cá là loài động vật máu lạnh. Điều này có nghĩa là cá có nhiệt độ cơ thể tương đương với nhiệt độ của môi trường nước xung quanh. Cá không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể như lợn, bò hoặc các vật nuôi khác. Chỉ đơn giản là cá không phát triển tốt ở điều kiện nước lạnh, nước càng ấm thì cá tăng trưởng càng tốt. Các loài khác nhau có tốc độ tăng trưởng khác nhau tùy thuộc vào nhiệt độ nước và cũng có những giới hạn nhiệt độ gây chết cá ở cao hơn bao nhiêu độ và thấp hơn bao nhiêu độ. Người nông dân phải chắc chắn giữ vật nuôi của mình trong vòng giới hạn này nếu không thì cá sẽ chết.
Hình 3.1 Tốc độ tăng trưởng của cá hồi cầu vồng ở 6°C và 16°C giống như chức năng của kích cỡ cá.
Một vấn đề khác ảnh hưởng đến tính khả thi của phương pháp chăn nuôi cá là kích cỡ của cá được nuôi trong trang trại. Dù ở bất kỳ nhiệt độ nào thì cá nhỏ vẫn có tốc độ tăng trưởng cao hơn cá lớn. Điều này có nghĩa là cá nhỏ có thể tăng cân nhiều hơn trong cùng khoảng thời gian so với cá lớn - xem hình 3.1.
Cá nhỏ cũng có tốc độ chuyển đổi thức ăn nhanh hơn cá lớn - xem hình 3.2. Phát triển nhanh hơn và sử dụng thức ăn hiệu quả hơn tất nhiên sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chi phí sản xuất vì chi phí sản xuất được hạ xuống khi tính toán trên mỗi kg cá được sản xuất. Tuy nhiên, việc sản xuất cá nhỏ chỉ là một bước trong toàn bộ quá trình sản xuất thông qua việc bán cá. Đương nhiên, không phải tất cả cá được sản xuất trong trại chăn nuôi cá đều có thể là cá nhỏ và do đó tiềm năng phát triển cá nhỏ là rất hạn chế. Tuy nhiên, khi thảo luận về loại cá dùng để sản xuất trong các hệ thống tuần hoàn thì câu trả lời đầu tiên và quan trọng nhất sẽ là cá nhỏ. Đơn giản dễ hiểu là vì khi đầu tư tiền vào sản xuất cá con, bạn nhận được nhiều hơn từ khoản đầu tư của mình khi nuôi cá nhỏ.
Chi phí để đạt được và duy trì nhiệt độ nước tối ưu quanh năm trong một cơ sở tuần hoàn là tiền được chi tiêu một cách hiệu quả. Nuôi cá ở điều kiện nuôi tối ưu sẽ giúp cho tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với điều kiện bình thường không tối ưu trong tự nhiên. Ngoài ra, điều quan trọng cần lưu ý là tất cả những thuận lợi về nước sạch, nồng độ oxy đầy đủ, v.v. trong hệ thống tuần hoàn có ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ sống sót, sức khỏe của cá, v.v ... cuối cùng mang lại một sản phẩm chất lượng cao.
Hình 3.2 Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) của cá hồi cầu vồng trong hệ thống tuần hoàn, liên quan đến trọng lượng của cá ở nhiệt độ 15-18°C.
So với các vật nuôi khác, có đa dạng các loài cá và nhiều loại cá khác nhau được nuôi. Khi so sánh với thị trường lợn, gia súc hoặc gà thì không thị trường nào đa dạng loại giống như cá. Người tiêu dùng không yêu cầu các loài lợn, gia súc hoặc gà khác nhau mà họ chỉ yêu cầu cắt khúc hoặc cắt theo bộ phận. Nhưng khi nói đến cá, sự lựa chọn của các loài được mở rộng và người tiêu dùng thường chọn từ một loạt các loại cá khác nhau. Tình huống này khiến cho nhiều loài cá khác nhau trở nên thú vị trong mắt bất kỳ người nuôi cá nào. Trong thập kỷ qua, hàng trăm loài thủy sản đã được đưa vào nuôi trồng thủy sản và tốc độ thuần hóa các loài thủy sản nhanh hơn hàng trăm lần so với việc thuần hóa thực vật và động vật trên cạn.
Nhìn vào khối lượng sản xuất cá nuôi trên thế giới sẽ thấy tình trạng thiên vị sản lượng giữa các loài. Từ hình 3.3 có thể thấy rằng cá chép (trong đó chúng ta chỉ nói về 5 loài phụ khác nhau) cho đến nay là loài chiếm ưu thế nhất. Cá hồi và cá hồi vân là dòng tiếp theo và đây chỉ là hai loài. Phần còn lại lên tới khoảng mười loài. Do đó, người ta phải nhận ra rằng mặc dù có rất nhiều loài được nuôi trồng nhưng chỉ một vài trong số đó tiếp tục trở nên thành công thực sự trên quy mô toàn thế giới. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả các loài cá mới được đưa vào nuôi trồng thủy sản đều thất bại. Người ta chỉ cần nhận ra rằng khối lượng sản xuất của các loài mới trên thế giới bị hạn chế và sự thành công và thất bại của việc nuôi trồng các loài này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thị trường. Sản xuất một khối lượng nhỏ của một loài cá có tiếng cũng có thể có lợi nhuận vì nó có giá cao. Tuy nhiên, do thị trường dành cho các loài có tiếng bị hạn chế, giá có thể sớm giảm xuống nếu sản xuất đại trà làm tăng sản lượng có sẵn. Có thể sẽ rất có lợi khi là người đầu tiên và duy nhất trên thị trường sản xuất một loài mới trong nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, đây cũng là một công việc kinh doanh rủi ro với mức độ không chắc chắn cao trong cả sản xuất và phát triển thị trường.
Hình 3.3 Phân bố sản xuất thủy sản chăn nuôi trên toàn cầu năm 2013. Nguồn: FAO
Khi đưa các loài mới vào nuôi trồng thủy sản cũng nên nhớ rằng đó là các loài hoang dã đang được bắt giữ và thử nghiệm trong nuôi trồng thủy sản. Thuần hóa thường là một nhiệm vụ lâu dài và rắc rối. Có nhiều tác động sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng chẳng hạn như sự thay đổi di truyền lớn về tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn, tỷ lệ sống sót và các vấn đề do sự trưởng thành sớm và tính nhạy cảm đối với mầm bệnh. Do đó, rất có thể hiệu suất của cá từ tự nhiên không tương ứng với mong đợi của người nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, virus trong các vật nuôi hoang dã có thể được đưa vào, trong đó có một số chỉ xuất hiện sau vài năm sinh sản dẫn đến thất bại.
Để đưa ra khuyến nghị chung về loài nào được nuôi trong các hệ thống tuần hoàn không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của một doanh nghiệp chăn nuôi cá. Ví dụ, chi phí xây dựng tại địa phương, chi phí và sự ổn định của việc cung cấp điện, sự sẵn có của nhân viên lành nghề, v.v ... Hai câu hỏi quan trọng cần được hỏi trước khi có bất cứ điều gì khác được thảo luận đó là: có phải các loài cá được coi là có khả năng hoạt động tốt trong một cơ sở tuần hoàn hay không; và thứ hai là có một thị trường cho loài này sẽ bán được ở một mức giá đủ cao và có khối lượng đủ lớn để làm cho dự án có lợi nhuận.
Câu hỏi đầu tiên có thể được trả lời theo cách tương đối đơn giản: nhìn từ quan điểm sinh học, bất kỳ loại cá nào được nuôi thành công trong nuôi trồng thủy sản truyền thống đều có thể dễ dàng nuôi được trong nuôi trồng thủy sản tuần hoàn. Như đã đề cập, môi trường bên trong trại cá tuần hoàn có thể được điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu chính xác của loài được nuôi. Bản thân công nghệ tuần hoàn không phải là trở ngại đối với bất kỳ loài mới nào được đưa vào. Cá sẽ phát triển tốt và thường thậm chí phát triển tốt hơn trong một đơn vị tuần hoàn. Cho dù nó sẽ hoạt động tốt theo quan điểm kinh tế nhưng không thể chắc chắn hơn vì điều này phụ thuộc vào điều kiện thị trường, đầu tư và chi phí sản xuất và khả năng phát triển nhanh chóng của loài này. Nuôi cá với tốc độ tăng trưởng thấp, chẳng hạn như các loài cá chuộng nước lạnh gây khó khăn trong việc tạo ra sản lượng hàng năm, điều minh chứng cho việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Việc điều kiện thị trường có thuận lợi cho một loài nhất định được nuôi trong hệ thống tuần hoàn hay không phụ thuộc nhiều vào sự cạnh tranh đến từ các nhà sản xuất khác. Và điều này không bị hạn chế đối với các nhà sản xuất địa phương vì công việc kinh doanh cá là việc kinh doanh toàn cầu và cạnh tranh cũng là cạnh tranh toàn cầu. Cá hồi vân nuôi ở Ba Lan có thể phải cạnh tranh với cá da trơn từ Việt Nam hoặc cá hồi từ các trang trại ở Na Uy vì cá được phân phối dễ dàng trên khắp thế giới với chi phí thấp.
Chúng tôi luôn khuyến nghị sử dụng các hệ thống tuần hoàn để sản xuất cá đắt tiền bởi vì giá bán cao sẽ khiến chi phí sản xuất cao hơn. Một ví dụ điển hình là kinh doanh nuôi lươn nơi giá bán cao làm cho chi phí sản xuất tương đối cao. Mặt khác, có một xu hướng mạnh mẽ sử dụng các hệ thống tuần hoàn để nuôi các loài cá có giá thấp hơn như cá hồi vân hoặc cá hồi.
Khái niệm trang trại cá hồi tuần hoàn của Đan Mạch là một ví dụ điển hình về các hệ thống tuần hoàn đi vào phân khúc giá tương đối thấp như cá hồi vân có kích cỡ theo khẩu phần. Tuy nhiên, mở rộng các hệ thống sản xuất như vậy là rất cần thiết vì hoạt động sản xuất cho ra khối lượng từ 1000 tấn trở lên để có thể cạnh tranh. Trong tương lai, có lẽ ở một số vùng nuôi cá hồi lớn sẽ chuyển từ nuôi cá lồng biển sang các cơ sở nuôi cá tuần hoàn trên đất liền vì các lý do môi trường. Ngay cả một sản phẩm cá có giá cực thấp như cá rô phi có thể sẽ trở nên có lãi khi phát triển trong một số loại hệ thống tuần hoàn trong cuộc chiến tiết kiệm nước và không gian mạnh mẽ thêm.
Sự phù hợp của việc chăn nuôi các loài cá cụ thể trong tuần hoàn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như lợi nhuận, mối quan tâm về môi trường, sự phù hợp sinh học. Trong các bảng dưới đây, các loài cá đã được nhóm thành các loại khác nhau tùy thuộc vào tính khả thi thương mại của việc nuôi chúng trong một hệ thống tuần hoàn.
Cần đề cập rằng đối với cá nhỏ thì việc sử dụng hệ thống tuần hoàn luôn được khuyến nghị bởi vì cá nhỏ phát triển nhanh hơn và do đó đặc biệt phù hợp với môi trường được kiểm soát cho đến khi chúng đạt kích thước tăng trưởng.
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao