Hướng dẫn thủ tục và phương pháp thực hành dành cho nghiên cứu nuôi trồng thủy sản - Phần 4
1. Nghề chăn nuôi (tiếp theo)
1.2. Quản lý bệnh tật và sức khỏe
1.2.5. Điều trị bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn
Thuốc kháng sinh phổ rộng như oxytetracycline (OTC) được sử dụng để điều trị một số bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn ở cá. OTC là một loại kháng sinh (được chế tạo nhân tạo) được sử dụng tiết kiệm để chống lại sự lây nhiễm của vi khuẩn, nhưng nó cũng có thể được sử dụng như một chất gắn thẻ sinh học về tuổi/ tốc độ tăng trưởng (khoa học nghiên cứu niên đại của bộ xương) trong các cuộc thí nghiệm. Thuốc kháng sinh OTC có sẵn ở dạng bột và dạng lỏng và có thể được sử dụng cho bên ngoài cơ thể cá (bằng cách tắm hoặc ngâm), bằng đường uống (khi ăn vào bụng) hoặc bằng cách tiêm vào màng bụng. Bởi vì có những sản phẩm OTC có sẵn được đăng ký hoặc được cấp phép có thể được sử dụng đúng theo các giấy phép đó ngay cả đối với thức ăn bằng cá. Để sử dụng trong nghiên cứu (không bao gồm sự tiêu thụ của con người —xem ở trên) không cần thời hạn khấu lưu và được phép sử dụng ngoài hướng dẫn (dùng thuốc cho mục đích chưa được cấp phép).
Các chất kháng sinh khác (chẳng hạn như florfenicol) cũng đã được phép dùng làm thức ăn cho cá trong những điều kiện nhất định.
Tắm/ ngâm mình
Trong lúc tắm hoặc ngâm trong dung dịch OTC thì OTC hoạt động tại vị trí nhiễm trùng và được hấp thụ qua các sợi mang đi vào dòng máu. Phương pháp này thường đạt hiệu quả cao hơn tất cả các phương pháp điều trị bằng thuốc kháng sinh khác. Dung dịch OTC được thêm trực tiếp vào bể chứa với tỷ lệ 20 mg/L thành phần hoạt tính trong 7 ngày ở nhiệt độ 20°C - 30°C và 10 ngày ở nhiệt độ <20°C. Trong suốt quá trình xử lý thì nước phải được sục khí tốt và không nên cho cá ăn.
Thức ăn tẩm thuốc
Để biết chi tiết về phương pháp điều trị bằng thuốc kháng sinh sử dụng thức ăn viên, thuốc, hãy xem Read và cộng sự (2007). Đối với cá biển, có thể chuẩn bị thức ăn viên dạng viên mềm bằng cách kết hợp 2 kg thịt cá mòi cơm băm nhuyễn và 3 kg bột viên nén kết hợp với bột thuốc kháng OTC tán nhuyễn. Hàm lượng OTC dạng viên được khuyến nghị là 50-100mg OTC/kg thức ăn viên. Thức ăn viên cũng có thể được phủ trực tiếp bằng bột kháng sinh OTC. Vitamin C (a-xít ascorbic) thường được bổ sung ở nồng độ 0.5 - 1.0 g/ 5 kg vào thức ăn viên để hỗ trợ quá trình chữa bệnh và giảm di chứng căng thẳng. A-xít oxolinic cũng có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị và cũng là một tác nhân có lợi cho mục đích dự phòng.
Tiêm kháng sinh vào màng bụng
Phương pháp sử dụng thuốc kháng sinh OTC bằng cách tiêm vào khoang trong màng bụng được sử dụng để xác định niên đại của bộ xương (nhằm mục đích đánh dấu các xương đang lão hóa của cá hoặc gắn thẻ), nhưng nó cũng có thể được sử dụng để điều trị, đặc biệt là đối với cá lớn hơn hoặc khi không thể cho ăn hoặc ngâm con vật cần điều trị. Có một số thuốc kháng sinh OTC dạng lỏng có sẵn dùng để tiêm. Tỷ lệ tiêm OTC được khuyến nghị là từ 50 - 100 mg/kg thể trọng.
1.2.6. Điều trị nhiễm ký sinh trùng và nấm bằng Formalin
Formalin được sử dụng trong ao hoặc bể nuôi cá biển và cá nước ngọt vừa làm chất chống nấm, vừa để kiểm soát các bệnh do ký sinh trùng ở cá và trứng cá (GESAMP, xem danh sách tham khảo).
Bồn tắm có thể là ngắn hạn và nồng độ cao hoặc dài hạn mà nồng độ thấp (xem Bảng bên dưới). Formalin loại bỏ ôxy ra khỏi nước và do đó ao và bể chứa phải được sục khí trong quá trình xử lý (Rowland & Ingram, 1991; Rowland và cộng sự 2007). Formalin nhanh chóng bị cạn kiệt xuống dưới mức điều trị trong vòng 48 giờ trong ao nuôi và do đó việc kiểm soát một số bệnh do vi rút có vòng đời phức tạp như ichthyophthiriosis phụ thuộc vào những đợt điều trị cách ngày cho đến khi bệnh được kiểm soát. Một số loài sán lá mang đẻ trứng và việc kiểm soát những ký sinh trùng này phụ thuộc vào ít nhất ba lần điều trị liên tiếp, cách nhau 1-3 tuần.
Nồng độ formalin và ứng dụng khống chế một số bệnh trên cá.
Bởi vì có những sản phẩm formalin có sẵn đã đăng ký hoặc được phép có thể được sử dụng đúng theo những giấy phép đó ngay cả đối với thức ăn bằng cá. Để sử dụng trong nghiên cứu (không bao gồm sự tiêu thụ của con người — xem ở trên) không cần thời hạn khấu lưu và được phép sử dụng ngoài hướng dẫn (dùng thuốc cho mục đích chưa được cấp phép).
CẢNH BÁO: Formalin là một chất có khả năng gây ung thư và nên được xử lý cẩn thận để tránh tiếp xúc với da, kích ứng mắt và hít phải (Katz, 1989).
1.2.7. Điều trị nhiễm ký sinh trùng bằng Trichlorfon
Trichlorfon (Neguvon®) là một loại phân hữu cơ có tác dụng kiểm soát sự xâm nhập của ký sinh trùng như sán lá mang và trùng mỏ neo (Lernaea sp.). Phương pháp điều trị bằng cách tắm trong dung dịch Neguvon (bột khử giun sán) trong khoảng thời gian từ mười hai đến mười bốn ngày thường là một phương pháp điều trị thành công đối với sán lá mang dactylogyrid. Nếu cá có dấu hiệu căng thẳng do ngoại ký sinh hoặc nếu việc điều trị không thành công (tức là cá tiếp tục có các triệu chứng căng thẳng, chẳng hạn như chớp mắt liên tục) thì cần phải chẩn đoán thêm. Cá nên được kiểm tra sau tất cả các lần điều trị để đánh giá hiệu quả điều trị. Để sử dụng trên cá vây nước ngọt, hãy tham khảo giấy phép APVMA PER9750 trước khi sử dụng.
Phương pháp điều trị bằng cách tắm trong dung dịch Neguvon được đề xuất
Xin lưu ý: Không cần điều trị vào các ngày 2, 4 và 6, v.v.
Neguvon bị suy kiệt nhanh chóng. Trong quá trình điều trị cũng nên duy trì tỷ lệ trao đổi nước từ 10-20%. Có thể tăng gấp đôi nồng độ xử lý lên 2.0 mg/L (nếu có nhu cầu), tuy nhiên 1.0 mg/L là nồng độ được ưu tiên. Vì nồng độ Neguvon được yêu cầu khá thấp nên việc chuẩn bị dung tích dung dịch xử lý lớn hơn sẽ đảm bảo nồng độ xử lý có độ chính xác cao hơn.
Cá cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu mệt mỏi (kiệt sức) trong quá trình điều trị. Neguvon có thể trở nên độc hại đối với cá nếu được bảo quản không đúng cách hoặc nếu được sử dụng khi đã quá hạn sử dụng.
Xin lưu ý đọc kỹ hướng dẫn an toàn trên nhãn chai và tham khảo giấy phép APVMA PER9750 trước khi sử dụng.
Bởi vì có những sản phẩm Neguvon có sẵn đã đăng ký hoặc được cấp phép có thể được sử dụng đúng theo những giấy phép đó hoặc được sử dụng đúng theo hướng dẫn thú y bằng văn bản, ngay cả đối với thức ăn bằng cá. Để sử dụng trong nghiên cứu (không bao gồm sự tiêu thụ của con người — xem ở trên) không cần thời hạn khấu lưu và được phép sử dụng ngoài hướng dẫn (dùng thuốc cho mục đích chưa được cấp phép).
1.3. Các dấu hiệu và biện pháp quản lý căng thẳng
Căng thẳng là một phản ứng sinh lý chung do chấn thương hoặc trước mối đe dọa về thể chất hoặc tâm lý đối với cơ thể, làm suy yếu chức năng hoạt động bình thường và làm giảm hiệu suất và cơ hội sống sót. Sự căng thẳng có thể là cấp tính (ví dụ: đánh bắt bằng lưới, xử lý thô bạo, nồng độ ôxy hòa tan thấp) hoặc mãn tính (ví dụ: mật độ thả rất cao, sự gây hấn, dinh dưỡng kém). Sự căng thẳng có thể dẫn đến suy giảm lượng thức ăn ăn vào, tăng trưởng chậm hơn và khả năng chống lại các bệnh truyền nhiễm thấp hơn. Các dấu hiệu của sự căng thẳng bao gồm: thay đổi hành vi kiếm ăn (bao gồm chán ăn); màu sắc bất thường hoặc không bình thường (nhợt nhạt, sẫm màu, đốm màu); hành vi bất thường (phóng ra khỏi mặt nước, bơi thất thường, bơi chậm, thở hổn hển trên bề mặt); thiếu phản ứng với các kích thích; tụ tập gần bề mặt hoặc các cạnh. Căng thẳng được giảm bớt bởi: chất lượng nước tốt; mật độ thả nuôi thích hợp; chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng với số lượng phù hợp dành cho cá được cho ăn thức ăn nhân tạo; một môi trường ổn định; rối loạn thể chất bị hạn chế; xử lý cẩn thận (được tạo điều kiện bằng lưới không có nút thắt, thuốc mê); và bảo vệ khỏi cá khỏi chim săn mồi trong ao.
1.4. Yêu cầu về ương trứng
Các trại sản xuất giống nước ngọt và nước mặn là những cơ sở thường nuôi và duy trì nhiều loài động vật bao gồm tảo, động vật không xương sống (làm thức ăn sống), ấu trùng, cá mới nở, cá giống và cá bố mẹ. Điều quan trọng là các thủ tục và quy trình sản xuất giống phải được triển khai, ghi chép lại và chuẩn bị sẵn sàng cho tất cả nhân viên làm việc trong đơn vị. Bản thiết kế và vận hành của các trại sản xuất cá giống nước ngọt được mô tả chi tiết trong Rowland và Bryant (1995) và Rowland và Tully (2004).
Sau đây là những hạng mục chính mà các nhà quản lý trại giống cần giải quyết.
Bể chăn nuôi
Bể nuôi phải có kích thước và thiết kế phù hợp, chi tiết về các yêu cầu của ACEC được liệt kê trong phần 3.1.
Quản lý bể chứa
Cấp thoát nước, sục khí, tấm chắn, quản lý chung, quy trình vệ sinh và khử trùng tiêu chuẩn.
Thả ấu trùng
Các quy trình kiểm dịch và thích nghi.
Lưu trữ hồ sơ
Hồ sơ riêng lẻ của từng ao, bể và các thiết bị khác; ngày, các sự kiện hàng ngày, cho ăn, các biện pháp điều trị, chất lượng nước, tỷ lệ tử vong, số lượng vật nuôi, người phụ trách chăm sóc.
Cho ăn
Thức ăn sống, (luân trùng và tôm ngâm nước mặn), tập ăn, chế độ ăn nhân tạo, dinh dưỡng, bảo quản và chuẩn bị thức ăn.
Thu hoạch/ Phân loại theo kích thước
Các thủ tục có liên quan đến các biện pháp thu hoạch/ phân loại, xử lý, điểm đến của động vật được thu hoạch, v.v.
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao