Suy hô hấp và suy nhược cơ thể ở lợn sau cai sữa
Tình trạng suy hô hấp và suy nhược cơ thể tăng do tỷ lệ chết ở lợn cai sữa và lợn đang phát triển ngày càng tăng.
Hình 1. Lợn cai sữa được nuôi quá đông có dấu hiệu suy nhược cơ thể.
Giới thiệu
Trang trại bao gồm 600 lợn nái thương mại ở Ireland sau một năm tăng đến 1.000 lợn nái.
Chủng nguyên mẫu được minh họa trong Bảng 1.
Bảng 1. Chương trình tiêm chủng.
Vacxin | Lợn nái | Lợn nái hậu bị | Lợn lòi đực | Lợn con |
Parvovirus | Tiêm 2 ml | Tiêm 2 ml sau khi đẻ 2 tuần | Tiêm 2 ml hai lần một năm | |
Erysipelas | Tiêm 2 ml trước khi phối giống 2 tuần | Tiêm 2 ml sau khi đẻ 2 tuần | Tiêm 2 ml hai lần một năm | |
Colibacillosis& Clostridiasis | Tiêm 2 ml trước khi đẻ 2 tuần | Tiêm 2 ml trước khi đẻ 2 tuần | ||
PRRS (MLV) | Tiêm 2 ml sau khi giao phối 60 ngày | Tiêm 2 ml sau khi đẻ 6 ngày và sau khi giao phối 60 ngày | Tiêm 2 ml hai lần một năm | |
PCV-2 | Tiêm 1 ml lúc cai sữa | |||
Viêm phổi | Tiêm 1 ml @ 10-14 ngày và @ cai sữa |
Lợn nái được nuôi trong nhà. Lợn đực được sử dụng để giao phối. Lợn nái và lợn nái hậu bị được thụ tinh nhân tạo từ một nguồn duy nhất.
Các cơ sở chăn nuôi cách nhau gần nhất là 2 km.
Lịch sử
Người nông dân đã liên lạc với bác sĩ phẫu thuật thú y về tình trạng suy hô hấp và suy nhược cơ thể tăng do tỷ lệ chết ở lợn cai sữa và lợn đang phát triển ngày càng tăng.
Cuộc điều tra
Điều tra lâm sàng
Trong một chuyến thăm trang trại vào tháng 9 năm 2017, nhiều lợn từ 6-15 tuần tuổi có dấu hiệu lâm sàng như suy nhược cơ thể và thở hổn hển thể bụng (hình 1 & 2). Ho. Trại nuôi có mật độ quá đông đúc.
Hình 2. Lợn có dấu hiệu suy nhược cơ thể.
Tỷ lệ chết từ giai đoạn cai sữa đến giai đoạn vỗ béo là 3,5 - 5%. Tuy nhiên, tỷ lệ chết hoàn toàn khác nhau đối với mỗi lứa (hình 3).
Hình 3. Hiệu suất hàng tuần của cơ sở chăn nuôi đến tháng 9 năm 2017.
Tỷ lệ chết từ giai đoạn cai sữa đến giai đoạn vỗ béo là 8,48% trong vòng 10 tuần. Tỷ lệ chết này là 2,64% trong giai đoạn 1 (4-9 tuần tuổi); 3,82% trong giai đoạn 2 (từ 10 đến 15 tuần tuổi); và 1,83% ở lợn vỗ béo (từ 16 tuần tuổi đến giết mổ).
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Hai lợn cai sữa 6 tuần tuổi có triệu chứng thở hổn hển thể bụng và suy nhược cơ thể được đem đi giết để khám nghiệm tử thi ở trang trại (Hình 4 & Video 1). Các mẫu được thu thập và gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích.
Hình 4. lợn cai sữa thở hổn hển thể bụng và còi cọc.
Bảng 2. kết quả trong phòng thí nghiệm từ hai lợn cai sữa 6 tuần tuổi.
Lợn con cai sữa | Sự mổ xẻ phân tích | Tài liệu về vi khuẩn học | Tài liệu về phân tử sinh học | Mô học |
1 | Tình trạng cơ thể kém. Sụt cân. Bệnh viêm màng ngoài tim. Viêm màng phổi. Viêm phổi trong vùng bụng và màng ngăn cùng với viêm phổi kẽ. | Pasteurella multocida. (Phổi). Streptococcus suis kiểu huyết thanh 3. (Phổi). | Khuẩn bệnh Mycoplasma hyopneumoniae, Influenza Virus cúm loại A & PCV-2 do RT-PCR (Phổi). EU-PRRS dương tính bởi RT-PCR (CT: 21.2) cùng với phổi từ lợn con cai sữa 1 & 2. | Phế quản với bạch hạt cầu trung tính và sự tăng sản của biểu mô cuống phổi. Mô phổi thể hiện tình trạng viêm cuống phổi tơ huyết khác nhau. Vì vậy, gan hóa và hóa thịt được phát hiện. Sự gia tăng nhanh của mô xơ xuất hiện trong gian tiểu thùy và gian phế nan. Các kết quả thể hiện chứng viêm mãn tính. |
2 | Tình trạng cơ thể kém. Sụt cân. Khối u bạch huyết ở bẹn to dần. Bệnh viêm màng ngoài tim. Viêm màng phổi. Viêm phổi trong vùng bụng và màng ngăn cùng với viêm phổi kẽ. | Pasteurella multocida.(Phổi). | Khuẩn bệnh Mycoplasma hyopneumoniae, Influenza Virus cúm loại A & PCV-2 do RT-PCR (Phổi). EU-PRRS dương tính bởi RT-PCR (CT: 21.2) cùng với phổi từ lợn con cai sữa1 & 2. | Các dấu hiệu của phổi bị viêm mãn tính. Viêm có mủ và chảy máu. Phế quản chứa bạch cầu hạt trung tính và biểu mô cuống phổi phát triển. Mãn tính do sự tăng nhanh của mô xơ trong các khe. Màng phổi tăng nhanh tại 1 điểm và chứng phù ở khe có thể được phát hiện. |
Kết quả của cuộc điều tra mổ xẻ và trong phòng thí nghiệm được tóm tắt ở Bảng 2. Bằng chứng mổ xẻ được thể hiện trong hình 5, 6, 7 & 8.
Hình 5. Viêm màng ngoài tim.
Hình 6. Viêm màng phổi giữa màng phổi và màng phổi sườn.
Hình 7. Viêm phổi kẽ với viêm phổi trong thùy hoành bụng.
Hình 8. Hạch bạch huyết màng treo ruột to dần.
Chẩn đoán phân biệt
Dựa trên các cuộc điều tra lâm sàng và phòng thí nghiệm, danh sách các chẩn đoán phân biệt đã được chuẩn bị như sau:
• PRRS (Hội chứng hô hấp và sinh sản).
• PCV2 (bệnh Circo virus lợn loại 2).
• Cúm loại Virus A.
• Viêm phổi ( khuẩn Mycoplasma hyopneumoniae)
Tác nhân vi-rút, chẳng hạn như virus cúm loại A và PCV-2, được loại trừ trên cơ sở kết quả thí nghiệm âm tính. Chủng ngừa PCV-2 thích hợp trong đơn vị này.
Viêm phổi đã được loại trừ dựa trên cơ sở kết quả thí nghiệm âm tính, chương trình tiêm chủng phù hợp và đàn gia súc không có triệu chứng ho.
Chẩn đoán nhiễm PRRS với nhiễm khuẩn cơ hội thứ cấp trong đàn gia súc được xác định dựa trên lịch sử, điều tra lâm sàng và xét nghiệm phù hợp.
Chương trình kiểm soát
Tiêm chủng vắc-xin MLV-PRRS được đề xuất cho tất cả các lợn con ở 10-14 ngày tuổi.
Tác động của các chương trình kiểm soát
Suy hô hấp và suy nhược cơ thể ở lợn đã giảm. Sau ba tháng, tỷ lệ chết giảm đáng kể xuống còn 5,2%. Tỷ lệ chết ở mức 2,25% trong giai đoạn 1(4-9 tuần tuổi); 1,72% trong giai đoạn 2 (từ 10 đến 15 tuần tuổi); và 1,24% ở lợn vỗ béo (từ 16 tuần tuổi đến giết mổ)
(Hình 10). Mật độ thả giống không bao giờ thay đổi.
Hình 10. Hiệu suất hàng tuần của cơ sở chăn nuôi đến tháng 2 năm 2018.
Thảo luận
Vào cuối những năm 1980, rối loạn hô hấp và sảy thai đã được mô tả ở Mỹ (Keffaber 1989) nhưng không tìm ra tác nhân gây bệnh. Hội chứng tương tự cũng được mô tả ở Đức vào năm 1990 (OIE 1992). Tác nhân gây bệnh lần đầu tiên được phân lập ở Hà Lan vào năm 1991 (Wensvoort và những nơi khác 1991) và đặt tên là Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS) (Terpstra và những nơi khác 1991).
Bệnh PRRS lần đầu tiên được chẩn đoán ở Bắc Ireland vào năm 1997 (Anonymous 1997) và tại Cộng hòa Ireland vào năm 1999 (Ohlinger và những nơi khác 2000).
PRRS xuất hiện ở hầu hết các nước sản xuất lợn trên thế giới. Các nước như Thụy Điển (Carlsson và những nơi khác 2009), Na Uy (OIE 1997), Phần Lan (Bøtner 2003), Thụy Sĩ (Corbellini và những nơi khác 2006), New Caledonia (OIE 1996), New Zealand (Motha và những nơi khác 1997), Úc (Garner và những nơi khác 1997), Argentina (Perfumo và Sanguinetti 2003), Brazil (CIACCI-ZANELLA và những nơi khác 2004) và Cuba (Alfonso và Frias Lepoureau 2003) được báo cáo không bị nhiễm PRRS.
Mức độ nghiêm trọng của bệnh PRRS thay đổi từ đơn vị này sang đơn vị khác. Các yếu tố không lây nhiễm cũng làm trầm trọng thêm các dấu hiệu lâm sàng. Những yếu tố không lây nhiễm bao gồm quản lý, số lượng lợn, nhà ở và điều chỉnh nhiệt độ. Nhiễm bệnh đồng thời với một số tác nhân virus và vi khuẩn có thể thúc đẩy các dấu hiệu lâm sàng PRRS trầm trọng hơn. Viêm màng phổi là một trong những tổn thương ở phổi của động vật bị nhiễm bệnh PRRS (Muirhead và Alexander 1997). BPEX (2009) nhận thấy viêm màng phổi có tác động kinh tế đáng kể. Tăng tỷ lệ viêm màng phổi có liên quan đến giảm trọng lượng thân thịt và tăng tuổi giết mổ. Chi phí cho nhà sản xuất, đối với 10% tỷ lệ viêm màng phổi điển hình ở cấp hàng loạt là £ 2.26/lợn-dựa trên giảm cân nặng và tăng độ tuổi giết mổ.
Tiêm văc xin MLV PRRS được chứng minh là làm giảm ảnh hưởng của virus ở lợn cai sữa (Waddell and others 2008), như trong trường hợp lâm sàng này.
Tác già tác phẩm gốc: Jesús Borobia Belsue
Related news
Tools
Phối trộn thức ăn chăn nuôi
Pha dung dịch thủy canh
Định mức cho tôm ăn
Phối trộn phân bón NPK
Xác định tỷ lệ tôm sống
Chuyển đổi đơn vị phân bón
Xác định công suất sục khí
Chuyển đổi đơn vị tôm
Tính diện tích nhà kính
Tính thể tích ao