Cá kèo Kỹ thuật nuôi cá kèo thương phẩm

Kỹ thuật nuôi cá kèo thương phẩm

Author Phạm Văn Khánh - Vũ Tuấn Anh, publish date Wednesday. December 7th, 2016

Kỹ thuật nuôi cá kèo thương phẩm

Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi cá kèo cũng giống như ao nuôi các loài cá khác, là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để nuôi luân canh cá kèo. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá kèo trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muốỉ.

Cần lựa chọn ao có diện tích hợp lý để nuôi cá kèo. Ao có diện tích quá nhỏ thì việc đầu tư không lớn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Nếu ao quá lớn sẽ phải đầu tư lớn và cũng khó khăn trong công tác quản lý môi trường ao nuôi, chăm sóc cá nuôi và nhất là khó khăn khi thu hoạch. Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá kèo ở các địa phương cho thấy, ao nuôi có diện tích từ 1.000 - 2.000 m2 là thích hợp nhất.

Trước khi tiến hành thả cá giống nuôi, phải chuẩn bị và cải tạo lại ao thật kỹ, bao gồm các khâu sau đây:

- Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá chẽm, cá nâu, cá rô phi và tất cả các loài cá và địch hại khác. Nên dùng rễ cây thuốc cá (Derris elliptica Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1 kg rễ tươi cho 100 m3 nước ao. Theo Bùi Quang Tề, dây thuốc cá có hoạt chất chính là Rotenon (hay Tubotoxin; Derris), chất này có tác dụng độc đối với động vật máu lạnh, rất độc với cá nhưng không độc với người và các loài giáp xác (như tôm, cua) Để nước trong ao còn độ sâu 8-10 cm và tính toán thể tích nước có trong ao, rễ cây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước từ 5-6 giờ rồi vắt lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.

- Cày hoặc xới đáy ao một lớp đất mỏng (5-7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo điều kiện cho sinh vật trong đáy ao phát triển để có nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.

- Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ (ủ mục, hoai) liều lượng 20 - 30 kg/100 m2 ao.

- Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng dùng 8-12 kg/100 m2, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hòa trộn vôi và phân hữu cơ.

- Phơi đáy từ 2 - 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không nên phơi đáy ao.

Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ cây thuốc cá, rải vôi để diệt tạp, hạ phèn và diệt mầm bệnh trong đáy ao.

- Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt khoảng 0,3 - 0,4 m thì có thể thả cá giông. Những ngày sau đó tăng dần mức nưóc ao cho đến khi đạt theo yêu cầu

Mùa vụ nuôi

Hiện nay các địa phương đang nuôi cá kèo thường dựa vào điều kiện ao và mùa vụ xuất hiện giống tự nhiên để tiến hành vụ nuôi. Giống tự nhiên thường bắt đầu có từ tháng 4 - 5 kéo dài đến tháng 8 - 9. Tuy vậy ngư dân vẫn khai thác cá giống tự nhiên gần như quanh năm và kích cỡ cá giống cũng lớn nhỏ không đều ở các tháng ngoài vụ giống chính. Mùa vụ nuôi cá kèo từ tháng 4-5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên. Ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi cá kèo sau khi nuôi tôm vụ 1 (vào tháng 7-8).

Kinh nghiệm ở một số địa phương cho thấy nếu nuôi sớm vào tháng 4-5 thì cá phát triển tốt, nhất là các tháng đầu tiên điều kiện môi trường thuận lợi cho cá do nhiệt độ cao nhưng không biến động nhiều, chưa có mưa nhiều nên độ mặn và các yếu tố của nước ít biến động. Nếu nuôi vào các tháng 7-8, thời tiết và môi trường có nhiều biến động do mưa lớn, độ mặn giảm, nhiệt độ thường thay đổi và chênh lệch lớn và nhất là vào các tháng cuối năm nhiệt độ hạ thấp nên ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá. Ớ một số vùng ven biển Đồng bằng Sông Cửu Long vào cuối mùa mưa, độ mặn ỏ các ao nuôi có khi xuống rất thấp, thậm chí gần như nước ngọt hoàn toàn. Vào những thời điểm này cá rất dễ bị nhiễm bệnh và chết, dẫn đến tình trạng hao hụt số lượng cá và tỷ lệ sống thấp khi thu hoạch.

Kích cỡ và mật độ thả giống nuôi

Kích cỡ cá giống

Nên chọn cá giống cỡ 3 - 5 cm hoặc 4 - 6 cm, cá giống ương nuôi trong ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khỏe hơn vì đã thích nghi với điều kiện trong ao. Chọn cá khỏe mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.

Kinh nghiệm ở nhiều người nuôi nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt rất lớn, có khi tới 60 - 70%, do cá yếu và chưa thích nghi với điều kiện môi trường mới trong ao nuôi. Ngoài ra tỷ lệ lẫn giống tạp khác còn cao do quá trình ép lọc vẫn chưa loại bỏ hết, nên có tình trạng cá tạp tranh dành thức ăn của cá nuôi, làm giảm hiệu quả nuôi

Mật độ thả nuôi

Tùy theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả nuôi với mật độ 30 - 60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3 cm) nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5-6 cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ nuôi lên cao hơn 60 con/m2, Một số hộ nuôi bống kèo còn có kinh nghiệm thả với mật độ ban đầu rất cao (hơn 100 con/m2), sau hai tháng nuôi thì san thưa với mật độ 50 con/m2. Tuy nhiên biện pháp thả dày rồi san thưa chỉ nên áp dụng với những hộ có các ao nuôi gần nhau để chuyển cá nhanh chóng, tránh được hao hụt trong khi đánh bắt, vận chuyển và san thưa cá.

Chăm sóc và quản lý ao nuôi

Thức ăn cho cá

Cá kèo có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ... cá còn ăn được các thức ăn do con ngưòi cung cấp như thức ăn chế biến và thức ăn viên công nghiệp.

Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoai 10-15 kg/100m2/tuần hoặc 100 - 150 gam phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 - 70%) và bột cá (30 - 40%) được trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A,D,E,C (tổng cộng 0,2 - 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3, 4 và 18% cho hai tháng cuối. Khẩu phần ăn 4-6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, cho ăn vào buổi sáng và chiều lúc trời mát.

Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 18 - 25%, giảm dần theo tháng tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 - 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

Ngoài ra trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu hóa nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hóa thức ăn tốt hơn, tránh được hiện tượng cá bị chướng bụng, đầy hơi.

Quản lý ao nuôi

a- Quản lý chất lượng nước

Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mức nước ao cần đạt 0,4 - 0,5 m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2 m cho đến khi mức nước đạt tối đa.

Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố hóa lý của nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị lỗ rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới. Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương hoặc không quá chênh lệch với độ mặn của nước trong ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của nước ao nuôi cá bống kèo, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới 3%o. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay ngay nước mái trong sạch.

Hình 7. Chài kiểm tra cá nuôi

b- Phòng trừ địch hại

Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn hại cá bống kèo như chim cồng cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi, bống cát... Chim cồng cộc và rắn đẻn có thể lặn trong ao săn cá và ăn hại cá đáng kể, cá nâu cũng bắt ăn thịt cá bống kèo; cá rô phi bắt ăn cá kèo nhỏ và dành thức ăn của cá nuôi; cá bống mọi, bống cát cũng dành thức ăn của cá bống kèo.

Để phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bống mọi, bống cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim cồng cộc, nên đặt các bù nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon) sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun) để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả.

Ngoài ra, để bắt các loài cá bống cát. bống mọi, có thể điều tiết mực nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5-10 cm) khi đó các loại cá bống mọi, bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ khi nước đã rút và dùng vợt thu gom.


Phòng và trị các bệnh thường gặp ở cá kèo Phòng và trị các bệnh thường gặp ở… Kỹ thuật nuôi Cá kèo - Tổng quan Kỹ thuật nuôi Cá kèo - Tổng quan